Bộ sưu tập
Trinh nữ hoàng cung hay náng lá rộng, tỏi lơi lá rộng, tây nam văn châu lan, tỏi Thái Lan, vạn châu lan hay thập bát học sĩ, hoàng cung trinh nữ ( danh pháp khoa học là Crinum latifolium L. ) là một loài thực vật có hoa thuộc họ Thủy tiên ( Amaryllidaceae ). Loài này được L. miêu tả khoa học lần đầu tiên vào năm 1753. Đây là loại cây ngày trước các Ngự y thường dùng để trị bệnh cho nữ còn trinh tiết trong hoàng cung nhưng không được vua chú ý nên mắc một số bệnh riêng của những phụ nữ sống trong cùng hoàn cảnh.
Được biết chi Náng ( Crinum ) là một chi gồm khoảng 180 loài thực vật lâu năm; có hoa lớn, sặc sỡ trên một cán dài và phát triển từ thân hành. Các phân tích tế bào học đã chỉ ra khoảng 27 loài trong chi Crinum là lưỡng bội với số lượng nhiễm sắc thể bình thường là 2n = 22. Abilio Fernandes phát hiện ra rằng loài C. bulbispermum ở sông Orange ( hay sông Gariep, sông Groote hay sông Senqu là sông dài nhất tại Nam Phi ) với 2n = 66 và loài Crinum macowanii với 2n = 44. Các loài đa bội cho ra hạt giống thường là trinh sản ( parthenogenetic ) kiểu tam bội hoặc lưỡng bội, kém sức sống và hiếm khi phát triển thành cây trưởng thành.
Tính đến tháng 7 năm 2014, World Checklist of Selected Plant Families ( Danh sách kiểm có chọn lọc các họ thực vật trên Thế giới ) đã liệt kê liệt kê 105 loài trong chi Crinum. Được biết trong số này là:
- C. americanum L. – Florida swamp-lily, string lily hay southern swamp crinum.
- C. asiaticum L. – Poison bulb ( hành độc ), giant crinum lily, grand crinum lily, spider lily ( loa kèn nhện ). Têm Việt là náng hoa trắng, đại tướng quân, chuối nước hay tỏi voi.
- C. bulbispermum (Burm.f.) Milne-Redh. & Schweick.
- C. latifolium L. – Trinh nữ hoàng cung.
- C. macowanii Baker – Sabbaaqqoo ( Tiếng Oromo ); Echachumuchum ( Tiếng Turkana ); IIjoye ( Tiếng Swazi ); Gitoka ( Tiếng Swahili ); Intelezi ( Tiếng Xhosa ); Umduze ( Tiếng Zulu ). Trong Tiếng anh là Cape coast lily, river crinum and sabie crinum ở Nam Phi.
- C. moorei Hook.f.
- C. pedunculatum R.Br., đồng nghĩa C. asiaticum var. pedunculatum (R.Br.) Fosberg & Sachet – Swamp lily, river lily hay mangrove lily.
- C. thaianum Schulze – Thai Onion plant ( hành Thái ) hay Water onion.
- C. viviparum (Lam.) R.Ansari & V.J.Nair – Náng lá kiếm, hoa nàng, náng lá gươm hay náng hoa đỏ.
Đặc điểm thực vật
Cỏ đa niên, thân hành như củ hành tây to, đường kính 10 – 15cm. Bẹ lá úp vào nhau thành một thân giả dài khoảng 10 – 15 cm. Có nhiều lá mỏng kéo dài từ 80 – 100 cm, rộng 3 – 8 cm, hai bên mép lá lượn sóng. Gân lá song song, mặt trên lá lõm thành rãnh. Mặt dưới lá có một sống lá nổi rất rõ, đầu bẹ lá nơi sát đất có màu đỏ tím. Hoa mọc thành tán gồm 6 – 18 hoa, trên một cán hoa dài 30 – 60 cm. Cánh hoa màu trắng có điểm thêm màu tím đỏ. Từ thân hành mọc rất nhiều củ con có thể tách ra để trồng riêng dễ dàng.
Xem thêm sản phẩm: Xuyên tâm liên
Thông tin thêm
1. Cây trinh nữ hoàng cung mọc ở đâu ?
Nhân dân ta thường nói rằng trinh nữ hoàng cung chỉ mọc ở Thái Lan, Campuchia nhưng thực tế ở Việt Nam cây cũng có mọc từ lâu và hiện nay có thấy trồng ở cả 3 miền Bắc, Trung và Nam. Ở nước ta bộ phận dùng chủ yếu là lá, dùng tươi hay phơi hoặc thái nhỏ sao vàng dùng dần. Ở một số nơi khác người ta còn dùng cán hoa, thân hành của cây đem đi thái nhỏ phơi khô.
2. Thành phần hoá học
Theo Giáo sư – tiến sĩ Đỗ Tất Lợi có đề cập trong “Những Cây thuốc và Vị thuốc Việt Nam” – Nhà xuất bản Y học, Nhà xuất bản thời đại có đề cập đến thành phần hoá học của tỏi Thái Lan như sau:
Năm 1984, Ghosal ( Ấn Độ ) đã phân lập và xác định từ cán hoa C. latifolium một glucoalcaloid có tên latisolin. Thủy phân bằng enzym thu được aglycon có tên latisodin ( J. Chan. Res 1983 ).
Ghosal và Shibnath còn phân lập được từ thân hành lúc cây đang ra hoa pratorimin và pratosin, là hai alcaloid pyrolophenanthrindon mới cùng với những chất đã được biết như pratonmin, ambelin và lycorin.
Năm 1986, Ghosal còn công bố tách được từ trinh nữ hoàng cung ( TNHC ) một số dẫn xuất alcaloid có tác dụng chống ung thư: crinafolin và crinafolidin. Các chất này đã được thử nghiệm với tế bào ung thư và cho kết quả dương tính. Năm 1989, Ghosal còn chiết từ dịch ép của cán hoa TNHC hai alcaloid mới có nhân pynolophennanthaidin là 2-epilycorin và 2-epipancrassidin.
Một số nhà khoa học Nhật Bản ( Kobayashi Shigenru, Tomoda. Masashi ) cũng tìm thấy một số ít alcaloid khác từ cây này như: crinamin, hamayne.
Trinh nữ hoàng cung chữa bệnh gì ?
Trích trong sách “Những Cây thuốc và Vị thuốc Việt Nam” của GS.TS Đỗ Tất Lợi.
Từ những năm 1989 – 1990, nhân dân ta đồn nhau tìm sử dụng lá cây trinh nữ hoàng cung tươi để chữa những trường hợp u xơ, ung thư tử cung, u xơ và ung thư tiền liệt tuyến với cách sử dụng như sau: ngày uống nước sắc của ba lá trinh nữ hoàng cung hái tươi thái nhỏ ngắn 1 – 2 cm, sao khô màu hơi vàng, uống luôn trong 7 ngày, rồi nghỉ 7 ngày, sau đó uống tiếp 7 ngày nữa, lại nghỉ 7 ngày và uống tiếp 7 ngày. Tổng cộng 3 đợt uống là 7 x 3 x 3 là 63 lá, xen kẽ 2 đợt nghỉ uống, mỗi đợt 7 ngày.
Nhiều người chỉ uống nước sắc trinh nữ hoàng cung như trên cũng thu được kết quả tốt. Nhưng có một số bệnh nhân uống thêm cùng nước sắc trinh nữ hoàng cung nước sắc một “đơn thuốc bổ thận” khi hỏi từ đầu có đơn thuốc này, thì câu trả lời không rõ ràng, nhưng vì tôi được đọc một bản chụp một tờ báo tiếng Việt ở nước ngoài gửi về (không thấy ghi tên, ngày tháng), nhiều người chỉ uống nước sắc trong đơn thuốc này không cùng uống nước sắc trinh nữ hoàng cung mà cũng khỏi cho nên tôi cứ ghi lại ở đây để mọi người cùng theo dõi: Đơn thuốc có 18 vị như sau: Chế viễn chi 8 gram, Đảng sâm 12 gram, Quảng bì 12 gram, Hắc Đỗ trọng 12 gram, Sơn thù nhục 8 gram, Phục linh 12 gram, Nhục thung dung 12 gram, Câu kỳ tử 12 gram, Bạch truật 8 gram, Liên nhục 12 gram, Thục địa 12 gram, Mẫu đơn 8 gram, Hắc táo nhân 16 gram, Trích hoàng kỳ 8 gram, Trích thảo 8 gram, Ngưu tất 12 gram, Hoài sơn 12 gram, Trạch tả 12 gram.
Ðể tiện cho người dùng cũng như tiện cho thầy thuốc theo dõi kết quả điều trị. Sau khi kiểm tra đúng các vị thuốc, chúng tôi chế thành ba dạng thuốc: trà trinh nữ hoàng cung, trà thuốc bổ thận, trà phối hợp thuốc bổ thận và trinh nữ hoàng cung. Ở những nơi khí hậu quá ẩm thấp, dạng trà khó bảo quản, chúng tôi chế thành dạng nước sắc đóng ống, cũng với ba dạng như trên.
Khi uống phối hợp nước sắc trinh nữ hoàng cung với đơn thuốc bổ thận, thi cân 10 thang thuốc bổ thận. Tuần đầu uống 4 thang thuốc bổ thận, cùng với uống 7 ngày uống nước sắc trinh nữ hoàng cung. 2 tuần sau, khi uống nước sắc thì mỗi tuần uống 3 thang thuốc bổ thận.
Địa chỉ bán cây trinh nữ hoàng cung tại Hà Nội uy tín ?
Để mua được sản phẩm dược liệu quý trinh nữ hoàng cung trị u nang buồng trứng chất lượng hoàn toàn tự nhiên. Các bạn có thể tìm đến công ty TNHH DTSX TMDV HẢI ĐĂNG, là nơi chuyên cung cấp các loại thảo dược quý hiếm từ khắp các vùng miền.
Chỉ cần một cuộc gọi, ship hàng toàn quốc ( thanh toán tiền sau khi nhận hàng ), hoàn toàn tiện lợi và cực kì uy tín.
Tài liệu tham khảo
+ Crinum latifolium – Wikipedia Tiếng Việt
+ “Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam” của GS.TS Đỗ Tất Lợi.
Tìm kiếm liên quan
- Viên uống trinh nữ hoàng cung có tác dụng gì
- Cách uống trinh nữ hoàng cung
- Review thuốc trinh nữ hoàng cung
- Lưu ý khi uống trinh nữ hoàng cung
- Tác dụng phụ của cây trinh nữ hoàng cung
- Cây trinh nữ hoàng cung có mấy loại
- Người bình thường có uống dược trinh nữ hoàng cung không
- Cây trinh nữ hoàng cung như thế nào
Sản phẩm liên quan: Hà thủ ô đỏ