Độ hoàn thiện nội dung: 60%.
Anh túc hay phù dung, thuốc phiện, anh tử túc, a phiến, túc xác, anh túc xác, cù túc xác, tên tiếng Anh là opium poppy, breadseed poppy (danh pháp khoa học là Papaver somniferum L.), là một loài thực vật có hoa thuộc họ Anh túc Papaveraceae. Cây này có chứa chất gây nghiện (ma túy), dùng cho trẻ con phải cẩn thận theo chỉ dẫn của thầy thuốc. Anh túc xác (Fructus Papaveris deseminatus) còn có tên túc xác là quả thuốc phiện sau khi đã lấy hạt và nhựa rồi phơi hay sấy khô. Hạt của cây này ăn được.






Trong nông nghiệp, cây anh túc P. somniferum được trồng với quy mô lớn để phục vụ ba mục đích chính:
- Sản xuất hạt anh túc dùng làm thực phẩm hoặc nguyên liệu trong làm bánh, tạo vị và trang trí.
- Sản xuất thuốc phiện (chủ yếu được ngành dược phẩm sử dụng để điều chế thuốc giảm đau và các chế phẩm y học có kiểm soát).
- Tổng hợp các alkaloid khác như thebaine và oripavine rồi được các công ty dược phẩm mua lại và điều chế thành các loại thuốc như hydrocodone và oxycodone (hai loại thuốc phiện bán tổng hợp).
Mỗi mục đích trên đều có những giống anh túc chuyên biệt, được lai tạo hoặc cải tiến di truyền không ngừng để tối ưu đầu ra. Chưa kể, một lượng nhỏ cây anh túc cũng được trồng làm cảnh vì có hoa đẹp.
Ngày nay, nhiều giống cây anh túc đã được lai tạo để không còn cho ra nhiều thuốc phiện như trước, thậm chí giống ‘Sujata’ thì hoàn toàn không tiết ra nhựa mủ (latex). Sự khác biệt này có ý nghĩa quan trọng đối với chính sách pháp lý liên quan đến việc trồng loài cây này của từng quốc gia.
Tại Việt Nam, việc trồng và buôn bán cây có chứa chất gây nghiện hoàn toàn bị nghiêm cấm. Cụ thể thì theo Luật Phòng, chống ma túy số 73/2021/QH14 ngày 30 tháng 3 năm 2021:
- Khoản 6 Điều 2: Cây có chứa chất ma túy là cây thuốc phiện, cây côca, cây cần sa và các loại cây khác có chứa chất ma túy do Chính phủ quy định.
- Khoản 1 Điều 5: Nghiêm trồng cây có chứa chất ma túy, hướng dẫn trồng cây có chứa chất ma túy.
Mô tả cây thuốc phiện
Cây thuốc phiện sống hàng năm hoặc 2 năm, thân cây nhẵn, trên có phủ phấn trắng, thân mọc thẳng cao 0,7 – 1,5m, ít phân nhánh. Lá mọc so le, lá ở dưới có cuống ngắn, lá phía trên không cuống, mọc ôm vào thân cây. Lá hình trứng dài 6 – 50cm, rộng 3,5 – 30cm đầu trên nhọn, đầu phía cuống nhọn hoặc hơi hình tim. Hoa mọc đơn độc ở đầu thân hoặc đầu cành có cuống dài 12 – 14cm, đài hoa có hai lá dài màu xanh sớm rụng, lá đài dài 1,5 – 2cm. Tràng có 4 cánh, dài 5 – 7cm, màu trắng hoặc hồng hay tím. Nhị nhiều, bao vây một bầu có một ngăn gồm 15 – 20 lá noãn dính liền nhau thành hình cầu. Quả là một nang hình cầu hoặc hình trụ dài 4 – 7cm, đường kính 3 – 6cm, khi chín có màu vàng xám, cuống quả phình to ra, đỉnh quả còn lại núm. Trong quả chín có rất nhiều hạt nhỏ, hơi giống hình thận, trên mặt có vân hình mạng nhỏ dài 0,5 – 1mm, màu xám trắng hoặc xám đen.
Toàn thân cây bấm chỗ nào cũng có nhựa mủ màu trắng, để lâu chuyển màu đen. Khi hái quả để làm anh túc xác thường ta thấy trên mặt quả có các vết ngang hoặc dọc tùy theo cách lấy nhựa, mỗi vết gồm 3 – 4 đường. Mùa hoa tháng 4 – 6. Mùa quả tháng 6 – 8.
Thông tin thêm
1. Phân bố, thu hái và chế biến
Cây thuốc phiện – Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi (đã sửa chính tả):
Được trồng tại các vùng cao có khí hậu mát lạnh ở nước ta như ở Lào Cai, Lai Châu, Hà Giang, Tuyên Quang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Hà Tây. Tại các nước khác đều có trồng: Liên Xô cũ, Trung Quốc, Ấn Độ, Nam Tư, Bulgaria … Nhựa chích vào lúc quả còn xanh. Quả (anh túc xác) hái sau khi quả chín.
2. Thành phần hóa học (sưu tầm)
Cây thuốc phiện – Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi (đã sửa chính tả):
Trong anh túc xác có axit meconic, axit tartaric, axit citric, morphin, noscapine (narcotine; Việt hóa: nacotin), papaverine.
Quả chín chứa nhiều alkaloid hơn quả non. Trong quả chín lượng morphin có thể lên tới 0,5%. Vỏ quả chưa chín chỉ chứa 0,02 – 0,05% morphin, cả noscapine và codein vào khoảng 0,0113 – 0,0116. Vỏ quả chín chỉ chứa 0,018% noscapine và codein 0,028%.
Thành phần trên thay đổi tùy theo cách thu hái, nguồn gốc cây thuốc phiện. Năm 1942, Diệp Bích Nguyên có phân tích một loại anh túc xác của Trung Quốc thấy tỷ lệ alkaloid như sau: Morphin 0,012%, codein 0,010%, noscapine 0,022% và một ít papaverine. Trong hạt thuốc phiện có 40 – 50% chất dầu, 18,4 – 21,6% chất protid, 0,25 – 0,94% lecithin, men (diastase) emulsin, lipase, nuclease và pectin.
Công dụng và liều dùng thuốc phiện
Anh túc xác (vỏ quả thuốc phiện khô) được dùng chữa các bệnh ho lâu ngày không khỏi, ho gà, đi tả. Liều dùng 4 – 5g.
Tài liệu tham khảo
- Papaver somniferum – Wikipedia tiếng Anh.
- Cây thuốc phiện – Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi.