Bộ sưu tập







Sửa chính tả và điều chỉnh lại nội dung: 26/3/2025;
Thầu dầu tía hay có nơi còn gọi với tên khác là đu đủ tía, tên tiếng Anh là castor bean, castor oil plant (danh pháp khoa học là Ricinus communis L.) là một loài thực vật nằm trong họ Đại kích (Euphorbiaceae) và là thành viên duy nhất trong chi Ricinus cũng như phân tông Ricininae.
Thầu dầu tía có nguồn gốc ở vùng Đông Phi, nhưng ngày nay nó đã phổ biến ở trên toàn thế giới. Thầu dầu quá dễ thích nghi với môi trường sống mới và có thể tìm thấy ngay cá ở các vùng đất bị bỏ hoang, gần đường sắt và gần đây được trồng nhiều để làm cảnh trong công viên hay các nơi công cộng khác.
Các hạt thầu dầu cũng được phát hiện nằm trong các ngôi mộ của người Ai Cập cổ đại có niên đại vào khoảng những năm 4000 TCN. Herodotus và các nhà du hành người Hy Lạp cổ đại khác cũng đã có đề cập tới việc sử dụng dầu của hạt thầu thầu để thắp sáng và xức dầu lên cơ thể.
Việc sử dụng dầu của hạt thầu dầu tại Ấn Độ cũng đã được đề cập tới trong một số tư liệu kể từ những năm 2000 TCN trong y học cổ đại như là một loại thuốc nhuận tràng. Hạt thầu dầu và dầu của nó cũng được sử dụng phổ biến tại Trung Quốc trong nhiều thế kỷ, chủ yếu trong việc kê các đơn thuốc trong y học để uống hay sử dụng trong băng bó.
Mô tả cây thầu dầu tía
Cây thầu dầu là một cây sống lâu năm, thân yếu nhưng có thể cao tới 10 – 12m. Khi trồng tranh thủ giữa các vụ lúa, người ta chỉ để nó cao tới 1 – 2m. Lá mọc so le có cuống dài, 2 lá kèm hai bên họp thành một túi màng, sớm rụng, phiến là hình chân vịt, gồm 5 – 7 – 9 có khi tới 11 thùy, cắt sâu, mép có răng cưa không đều. Hoa mọc thành chùm xim nhiều hoa, xim dưới gồm toàn hoa đực, xim trên toàn hoa cái. Quả 3 mảnh vỏ dài 2 – 3cm, rộng 2cm, trên mặt có nhiều gai mềm, đầu tròn và có 3 vết lõm chia 3 ngăn, trên lưng mỗi ngăn lại có 1 rãnh nông nữa. Hạt hình trứng, hơi dẹt, dài 8mm, rộng 6mm, ở đầu có mồng (chính là áo hạt của noãn khổng). Mặt hạt nhẵn bóng màu nâu xám. có vân đỏ nâu hay đen.
Có nhiều loại thầu dầu: Thầu dầu thường và thầu dầu tía chỉ có lá loại tía được chọn dùng làm thuốc.
Thông tin thêm
1. Phân bố, thu hái và chế biến
Cây mọc hoang và được trồng ở nhiều nơi vùng nhiệt đới: Việt Nam (Hà Giang, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc, Phú Thọ), Ấn Độ, bắc châu Phi, Brazil, …
Mùa thu hoạch hạt vào tháng 4 – 5, nhưng chủ yếu với mục đích ép dầu dùng trong công nghiệp. Làm thuốc chỉ dùng rất ít hạt và dầu. Lá hái quanh năm. Thường chỉ dùng lá tươi.
Xem thêm sản phẩm mới cây Vọng cách tại shop
2. Thành phần hóa học
Cây thầu dầu – Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi (đã sửa chính tả lại các hợp chất):
Trong hạt thầu dầu có 40 – 50% dầu, 25% chất anbuminoid, axit malic, đường muối, xenluloza, ricin và ricinine, các men trong đó có men lipaza.
Dầu thầu dầu là một chất lỏng sền sệt, trong, không màu hay hơi vàng, mùi vị nhạt và buồn nôn, tỷ trọng ở 15oC là 0,950 – 0,970, độ nhớt Engle 18,8 (nếu là dầu ép) hoặc 17,4 – 13,3 (nếu là dầu chiết bằng dung môi). Thành phần của dầu ngoài các glyxeride chung như stearin, palmitin, còn có một glyxeride đặc biệt là ricinolein (xà phòng hoá sẽ cho axit ricinoleic) một ít axit isoricinoleic và axit dioxystearic.
Axit ricinoleic hay axit 12-hydroxy-9-cis-octadecenoic là một axit béo rượu công thức sau đây:
Công thức cấu tạo của axit ricinoleic Thuỷ phân axit ricinoleic sẽ cho axit onantylic và axit undexylenic có tác dụng chống nấm rất mạnh và được dùng trong kỹ nghệ nước hoa (tổng hợp undecanon, nonanon, aldehyde undecylenic, methyl heptine carbonate) kỹ nghệ cao phân tử rinsan.
Chất ricin tỷ lệ 3 – 5% trong hạt là một protein rất độc. Khi ép dầu, chất này nằm lại trong khô dầu, làm thức ăn được. Có thể chiết chất ricin bằng nước muối (ngâm) rồi kết tủa bằng amon sunfat. Nó không tan trong đầu.
Ricinin là một alkaloid có tinh thể, không màu, tan trong nước, công thức thơ C8H8N2O2, cấu tạo hoá học của nó đã được Sparth và Koller (1923) xác định là 3-cyano-4-methoxy-N-methyl-2-pyridone. Khi phân giải, ta sẽ có cồn metylic và axit ricinic.
Tỷ lệ ricinin trong hạt là 0,15%; trong lá non là 1,3%; trong lá úa là 2,5%.
Thành phần lá thầu dầu chưa thấy giới thiệu nhiều, chỉ mới biết có ricinin với tỷ lệ như trên.
Trong lá thầu đấu có axit lactric, axit citric, axit corydalic, (Hoá học học báo,1957, 23, 201), nhiều axit amin, rutonoside (khoảng 0,2%), quercitrin, astragalin, axit β-eleostearic, và axit oleic, axit hữu cơ no, lá tươi còn chứa corilagin C27H22O18, axit gallic, axit ellagic và axit shikimic (Arthur H. R. Symposium on Phytochemistry, 1964, 164 và Kariyone et al. Annual Index of the Reports on Plant Chemistry, 1959, 69).
Bốn hợp chất mới có tên là (3E,7Z,11E)-19-hydroxycasba-3, 7, 11-trien-5-one (1), 6α-hydroxy-10β-methoxy-7α,8α-epoxy-5-oxocasbane-20,10-olide (2), 15α-hydroxylup-20(29)-en-3-one (3), và (2R,4aR,8aR)-3,4,4a,8a-tetrahydro-4a-hydroxy-2,6,7,8a-tetramethyl-2-(4, 8,12-trimethyltridecyl)-2H-chromene-5, 8-dione (4) đã được phân lập từ chiết xuất MeOH của các bộ phận trên mặt đất của Ricinus communis L. bằng phương pháp sắc ký. Cấu trúc của chúng đã được làm sáng tỏ bằng các thí nghiệm quang phổ mở rộng (Qin-Gang Tan et al.; Helvetica Chimica Acta. 92 (12): 2762–8; 2009).
3. Tác dụng dược lý
Dầu thầu dầu có tác dụng tẩy nhẹ và chắc chắn. Uống lúc đói với liều 10 – 30g. Sau khi uống từ 3 đến 4 giờ sẽ gây đi ỉa nhiều, mà không đau bụng. Với liều 30 – 50g, đi ỉa sẽ kéo dài 5 – 6 giờ. Dầu này không hề gây một hiện tượng sót nào trong ruột. Theo dõi bằng X quang, người ta thấy ruột non và ruột già co bóp nhiều hơn. Nó không hề ảnh hưởng tới xương chậu nhỏ, do đó rất tốt cho phụ nữ có thai mà táo bón. Nhưng dùng luôn, nó có thể gây chán ăn, lưỡi trắng và có khi sốt. Nguyên nhân của hiện tượng này có thể do không tiêu, chứ không gây tổn thương nào trên niêm mạc.
Theo Valette và Salvanet (1936), tác dụng tẩy của dầu thầu dầu tía là do axit rixinoleic được giải phóng bên trong ruột. Axit này tác dụng mạnh lên mẩu đầu ruột non.
Chất ricin là một chất độc. Với liều 0,002mg, đối với 1kg thể trọng đã làm chết một con thỏ. Tác dụng độc của nó giống như vi trùng. Nó có thể gây miễn dịch, tức cho súc vật ăn với liều nhỏ, nhiều lần, thì sau đó súc vật có thể ăn với liều khá cao mà không chết.
Ricin bị phân hủy bởi nhiệt độ cao, cho nên có nơi có thể cho lợn ăn khô thầu dầu đã hấp nóng ở 115oC trong 1 tiếng rưỡi. Một vài nơi thấy người dân ăn hạt thầu dầu xào nấu mà không thấy hiện tượng bị ngộ độc.
Nhưng nếu không bị phá hủy, thì độc của nó rất cao. Cụ thể với liều 3g khô dầu đủ giết chết một con bò non nặng 100kg, chỉ cần tiêm 0,03mg cho 1kg thể trọng chó là đủ giết chết chúng. Liều độc đối với một con chuột bạch nặng 500g là 6 phần triệu gam tức đối với chuột bạch, ricin độc gấp 7 lần aconitin – một chất độc được xếp vào loại độc nhất có trong ô dầu (chi Aconitum). Liều độc với người là 3mg tiêm dưới da, 180mg uống, một hạt đủ gây nôn mửa, 3 – 4 hạt đủ làm trẻ con chết, 14 – 15 hạt có thể gây tử vong ở người lớn. Tiêm chất Ricin đun lâu có thể gây nhiễm độc. Thanh huyết miễn độc, antiricin đủ lâu có thể giảm bớt hiệu lực.
Được biết cơ chế tác dụng của ricin là làm vón hồng cầu và bạch cầu.
Chất ricinin không thấy có tài liệu nào về tác dụng dược lý.
Sương sâm lông – không làm thạch thì làm gì chứ – tìm hiểu ngay
Cây thầu dầu tía chữa bệnh gì ?
1. Tinh vị, tác dụng
Hạt thầu dầu tía có vị ngọt, cay, tính bình, có độc. Công dụng tiêu thũng bài nung, bạt độc.
Dầu thầu dầu thì có tác dụng nhuận tràng, thông tiện.
Lá sẽ có vị ngọt, cay, tính bình, ít có độc, giúp tiêu thũng bạt độc, chống ngứa.
Rễ nhạt, hơi cay, tính bình, có tác dụng khư phong hoạt huyết, giảm đau trấn tĩnh.
2. Ứng dụng chữa bệnh
- Sa tử cung và trực tràng:
Có thể dùng hạt Thầu dầu giã ra đắp lên đầu.
- Ðẻ khó, sót nhau:
Dùng hạt Thầu dầu (độ khoảng 14 hạt) giã nát đắp vào lòng bàn chân. Khi đẻ xong hay nhau đã ra thì phải bỏ thuốc ngay và rửa sạch.
- Liệt thần kinh mặt
Giã hạt Thầu dầu và đắp vào phía đối diện.
- Chữa bệnh trĩ:
Cách 1: Dùng lá cây thầu dầu tía để chữa bệnh trĩ
– Dùng lá cây thầu dầu tía đã rửa sạch, đem đi đun đến khi thấy nước đặc, để nguội rồi dùng để rửa hậu môn.
– Hoặc kết hợp dùng lá thầu dầu tía và lá vông:
+ Chuẩn bị lá thầu dầu tía và lá vông (dùng cả lá và thân). Tất cat đem rửa sạch và đun, dùng nước ngâm như cách trên.
+ Dùng lá thầu dầu tía và lá vông theo tỉ lệ 1:1, tiến hành giã nát rồi dùng miếng vải sạch để bọc lại và đem đắp hậu môn trong vòng 5 phút là được, sau đó dùng khăn lau sạch lại. Thực hiện 1 lần/ngày, chỉ sau khoảng 1 tuần là bạn sẽ thấy các triệu chứng bệnh trĩ thuyên giảm rõ rệt.
Cách 2: Cách chữa bệnh trĩ bằng hạt cây thầu dầu tía
– Lấy 9 hạt thầu dầu tía và 9 con nhện nước.
– Giã nát hai thứ này với nhau, xào với dấm thanh cho nóng.
– Sau đó dùng miếng vải sạch bọc lại, sau đó vạch tóc ra và tiến hành đắp vào huyệt Bách hội ở giữa đỉnh đầu (nê hoàn cung). Cần lưu ý rằng, khi thấy búi trĩ dần rút lên thì nên gỡ bỏ thuốc đi, vì để lâu sẽ rất nguy hiểm.
Phong lộc hoa alo là khoá – tìm hiểu luôn
Trồng cây thầu dầu tía cho hiệu quả kinh tế cao
Hiện nay, các tỉnh vùng Tây Nguyên là Gia Lai, Đắk Lắk và đặc biệt là Đắk Nông phát triển được hơn 3.000 ha cây thầu dầu trong các vùng đồng bào dân tộc thiểu số, trong đó có một số diện tích cho thu bói năm đầu đạt từ 3 – 4 tạ hạt khô/ha. Sau 4 năm trồng, năng suất cây thầu dầu đang có dấu hiệu tăng nhanh và ổn định ở mức 7 – 8 tấn hạt/ha (tùy theo từng vùng đất), tuổi thọ của loại cây trồng này sinh trưởng trên 40 năm, không những góp phần phủ xanh đất trống đồi trọc mà còn đóng góp không nhỏ về mặt giá trị kinh tế tại những vùng dân cư nghèo nàn.
Địa chỉ bán cây thầu dầu tía tại Hà Nội uy tín ?
Địa chỉ: Ngách 68/45, ngõ 68, đường Nguyễn Văn Linh, Long Biên. Đối diện với Tổng công ty may 10, Hà Nội.
- Quý khách xin vui lòng liên hệ với Cây cảnh Hải Đăng để được các chuyên viên của chúng tôi tư vấn lựa chọn sản phẩm bầu giống thầu dầu tía phù hợp.
- Chúng tôi sẽ chụp ảnh sản phẩm cho quý khách nếu có yêu cầu.
- Chúng tôi sẽ kiểm tra kỹ hàng hóa đảm bảo chất lượng và đúng quy cách trước khi giao.
- Quý khách ở xa vui lòng tiến hành chuyển khoản trước. Nếu quý khách ở nội thành có thể áp dụng ship nhanh với chi phí 30,000 VNĐ một lần ship.