Bộ sưu tập






Cây bình vôi hay củ gà ấp, dây mối trơn, ủ một, củ mối tròn, ngải tượng, tử nhiên (danh pháp khoa học là Stephania rotunda Lour.; đồng nghĩa Stephania glabra (Roxb.) Miers) là loài thực vật thuộc chi Chi Bình vôi Stephania trong họ Tiết dê Menispermaceae.
Bình với hay củ bình vôi (Tuber Stephaniae rotundae) là phần thân phình ra thành củ của cây bình vôi Stephania rotunda Lour.
Cây củ bình vôi cho ta các vị thuốc:
- Thân cù (Tuber Stephaniae rotundae) thái mỏng phơi hay sấy khô.
- Các hoạt chất, chủ yếu là chất rotundine.
Trước đây có người gọi nhầm cây này là hà thủ ô cho nên thuốc rotundin chế từ củ bình vôi có người lại đặt tên là thuốc an thần hà thủ ô.
Mô tả cây bình vôi
Cây bình vôi – Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi (đã sửa chính tả):
Cây củ bình vôi là một loại cây mọc leo, phần dưới thân phát triển thành củ to, bám vào núi đá, có củ rất to, nặng tới hơn 20kg. Da thân củ màu nâu đen, xù xì giống như hòn đá, hình dáng thay đổi tuỳ theo nơi củ phát triển. Nếu mọc ở đất thì củ nhỏ hơn. Có người gọi là “củ gà ấp”. Hiện nay có người cho cây củ gà ấp là cây củ bình với mọc ở núi đất. Có người lại cho là cây củ gà ấp và cây củ bình vôi là hai cây thuộc hai loài khác hẳn nhau (cần chú ý kiểm tra lại). Từ thân củ mọc lên những thân màu xanh, nhỏ, mềm. Lá hình khiên, mọc so le, hình bầu dục hay hình tim hoặc tròn, đường kính 8 – 9cm, cuống lá dài 5 – 8cm. Hoa nhỏ mọc thành tán. Hoa đực cái khác gốc. Hoa cái có cuống tán ngắn, còn hoa đực số cuống tán dài. Quả chín hình cầu màu đỏ, tươi, trong chứa một hạt hình móng ngựa.
Thông tin thêm
1. Phân bố, thu hái và chế biến
Cây bình vôi – Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi (đã sửa chính tả):
Cây củ bình vôi thường ưa mọc ở những vùng có núi đá tại các tỉnh Hà Tây, Hoà Bình, Hà Giang, Tuyên Quang, Nam Định, Hà Nam, Ninh Bình, Cao Bằng, Lạng Sơn, Thanh Hoá … Nơi cao lạnh như Sapa (Lào Cai) cũng có. Tại những vùng núi đất có một cây hình dáng rất giống, nhưng củ nhỏ, thường chỉ bằng quả trứng vịt gọi là cây củ gà ấp. Không rõ có phải là cây củ bình với mọc ở những nơi núi đất hay không. Hiện chưa có dịp kiểm tra lại.
Củ bình vôi có thể thu hái quanh năm, đem về cạo bỏ vỏ đen, thái mỏng phơi khô rồi ngâm rượu hay sắc uống. Không phải chế gì khác.
Từ củ bình vôi, ta có thể chế biến ra chất rotudine thô hay tinh khiết như sau: Thái hay xát củ bình với như ta xát nấu. Ép lấy nước, bã còn lại thêm nước vào, khuấy đều rồi lại ép nữa. Làm như vậy cho tới khi bã hết đẳng (alkaloid ra hết). Nước ép để lắng, thêm nước với trong hoặc dung dịch cacbonat kiềm sẽ cho tủa rotundine thô. Lọc hay gạn lấy phơi hoặc sấy khô. Như vậy ta sẽ được rotundine thô vừa gọn, vừa dễ bảo quản và dễ vận chuyển, không như củ bình vôi vừa cổng kênh, bảo quản khó, chuyên chở không kịp dễ bị thối hỏng, tỷ lệ alkaloid hạ xuống. Từ rotundine thô, ta có thể chiết rotundine tinh khiết bằng cách dùng cồn hay dung dịch axit sunfuric 5 hay 10% nóng, lọc rồi kết tinh. Làm đi làm lại nhiều lần, theo nguyên tắc chung của chiết alkaloid, ta sẽ được rotundine tinh khiết.
2. Thành phần hoá học
Cây bình vôi – Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi (đã sửa chính tả):
Năm 1940, Bùi Đình Sang đã chiết từ củ binh với mọc ở Việt Nam các chất tinh bột, đường khử oxy, axit malic, men oxydase và một alkaloid với tỷ lệ 1,2 đèn 1,5% (tính trên củ tươi), được Bùi Đình Sang đặt tên là rotundine.
Năm 1944, Kondo (Nhật) đưa ra công thức khai triển của rotundine như sau với công thức thô là C21H25NO4.
Tại Ấn Độ, năm 1950 và 1952, Chaudry G. R và S Siddiqui nghiên cứu và chiết từ củ cây Stephania glabra (Roxb.) Miers nhiều alkaloid và đặt tên là hyndarin C21H25NO4, stefarin C18H19NO3 và cycleanine C38H42N2O6 trong do hyndarin chiếm thành phần chủ yếu (chừng 30% hyndarin, 15 – 18% stefarin và rất ít cycleanine).
Nghiên cứu cấu tạo hyndarin người ta thấy rằng hyndarin thực ra cũng chỉ là một alkaloid đã biết có tên là tetrahydropalmatine (THP).
Trước năm 1965, người ta vẫn cho rằng hyndarin và rotundine là hai alkaloid khác nhau vì chiết từ hai cây khác nhau, mọc tại hai nước khác nhau. Nhưng đến năm 1965, Viện nghiên cứu cây thuốc và cây có tinh dầu toàn liên bang Xô Viết cũ (VILAR) có dịp so sánh hai cây, một di thực từ Ấn Độ, một di thực từ Việt Nam, thấy rằng hai cây chỉ là một loài nên đã kiểm tra lại tính chất của rotundine và đã xác định rotundine và hyndarin chỉ là một chất và có cấu tạo của tetrahydropalmatine (Công tác dược khoa, 6 – 1965). Nhưng thực tế rotundine của Bùi Đình Sang là một hỗn hợp nhiều alkaloid trong đó chủ yếu là hyndarin.
Ngoài rotundine ra, năm 1964, tại Bộ môn dược liệu (Trường đại học dược khoa, Hà Nội) Ngô Văn Thu còn chiết từ củ bình vôi Việt Nam một alkaloid mới với tỷ lệ 1% và đặt tên là alkaloid A (Tập san hoá học, UBKHKTVN 12-1964), hiện đã được xác định là roemerine C18H17NO2.
Năm 1965 tại Liên Xô cũ, Phan Quốc Kinh và cộng sự cũng chiết từ củ bình vôi mang từ Việt Nam sang một số alkaloid khác và đặt tên là alkaloid A, alkaloid C và D với tỷ lệ 0,08% mỗi thứ (Hoá học các hợp chất thiên nhiên, 6 – 1965).
3. Tác dụng dược lý
Cây bình vôi – Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi (đã sửa chính tả):
Tác dụng dược lý của rotundine đã được nghiên cứu trong nước ta (Revue médicochirurgicale franca lise d ’Extrême-orient, 4 – 1944, 430 – 433), tại Liên Xô cũ (Dược lý học và độc chất học, 3- 1961), Rumani (1963) và Trung Quốc (Dược học thông báo, 1965). Sau đây là một số kết quả:
– Rotundine rất ít độc: Tiêm vào mạch máu một con thỏ với liều cao hơn 30mg/1kg thể trọng, con thỏ chỉ mệt 1 – 2 ngày, đồng tử bị liệt nhất thời rồi lại hết.
– Tác dụng trấn kinh rõ rệt trên nhu động vị tràng. Trên mẫu ruột lấy riêng, nó gây hiện tượng giảm khẩn rõ rệt mà vẫn duy trì sự co bóp đều hoà và kéo dài. Có thể dùng chữa những trường hợp tăng nhu động và ống tiêu hóa bị giật.
– Tác dụng điều hoà đối với tim và bổ tim nhẹ.
– Còn có tác dụng điều hoà hô hấp có thể dùng chữa hen hay chữa nấc.
– E. A. Trutēva (Liên Xô cũ, 1961) còn chứng minh tác dụng an thần, gây ngủ và chống co quắp, hạ huyết áp.
Đối với những alkaloid khác của củ bình vôi, chỉ có alkaloid A (tức là roemerine) do Ngô Văn Thu chiết, được Dương Hữu Lợi thí nghiệm dược lý (Y học Việt Nam, 1 – 1966) và đã đi tới những kết luận sau đây:
– Dung dịch alkaloid A có tác dụng gây tê niêm mạc và phong bể: Tính theo công thức G. Valette, dung dịch 0,5% có tác dụng gây tê miêm mạc tương đương với dung dịch 1,8% cocaine hydrochloride, theo thí nghiệm của Mak và Nelson, dung dịch alkaloid A 0,5% có tác dụng gây tê phong bế mạnh hơn dung dịch cocaine hydrochloride 1% và dung dịch novocain 3%.
– Alkaloid A làm giảm biên độ và tần số co bóp của tim ếch cô lập, nhưng với liều mạnh hơn, tim ếch ngừng ở thời kỳ tâm trương. Điều này chứng tỏ dung dịch alkaloid A có ảnh hưởng trực tiếp trên tám cơ và làm ngừng co bóp. Dung dịch alkaloid A có tác dụng đối lập với tác dụng gây tăng trương lực và nhu động co bóp ruột của dung dịch acetylcholine. Dung dịch alkaloid A có tác dụng an thần gây ngủ với liều lượng nhẹ nhưng với liều cao kích thích thần kinh hệ trung ương, gây co giật và chết. Ở điểm này, dung dịch alkaloid A hoàn toàn khác hẳn với dung dịch rotundine. Ngoài ra, alkaloid A có tác dụng giãn mạch hạ huyết áp, giảm cả huyết áp tối đa và tối thiểu.
– Dung dịch alkaloid A có độc tính DL50: 0,125g/kg thể trọng chuột, như vậy liều độc tương đương với cocaine hydrochloride, đồng thời dung dịch alkaloid A cũng có những biểu hiện độc nhưcocaine (kích thích thần kinh hệ trung ương, biểu hiện co giật …).
Trên lâm sàng rotundine được áp dụng rộng rãi từ năm 1944 và trong suốt kháng chiến chống Pháp để điều trị có kết quả một số trường hợp đau tim, mất ngủ, hen, đau bụng, lỵ amíp. Tác dụng rõ rệt nhất là ngủ và an thần.
Công dụng và liều dùng bình vôi đỏ
Trong nhân dân củ bình vôi thái nhỏ, phơi khô được dùng dưới dạng sắc, ngâm rượu chữa hen, họ lao, lỵ, sốt, đau bụng, ngày uống 3 đến 6g. Có thể lăn bột, ngâm rượu 400 với tỷ lệ 1 phần bột 5 phần rượu, rồi uống liều 5 đến 15ml rượu một ngày. Có thể thêm đường cho dễ uống.
Rotundine được dùng làm thuốc trấn kinh, trong các trường hợp mất ngủ, sốt nóng, nhức đầu, đau tim, đau dạ dày, hen. Ngày dùng 0,05g đến 0,10g dưới dạng thuốc bột, thuốc viên.
Trẻ con dùng với liều lượng 0,02g đến 0,025g đối với trẻ 1 – 5 tuổi; 0,03g đến 0,05g đối với trẻ 5 – 10 tuổi.
Hướng dẫn trồng củ bình vôi
Bình vôi có 2 loại đó là củ bình vôi đỏ và củ bình vôi trắng. Hiện nay thì bà con thường trồng loại bình vôi đỏ vì dược tính cao hơn.
1. Cách trồng
– Chọn đất ẩm, thoát nước, ít chua.
– Nguồn giống: Thu hái quả lúc bắt đầu chín, hong trong râm nơi khô ráo, thoáng mát. Xát nhẹ tách vỏ, loại bỏ tạp vật rồi đem gieo ngay.
– Ngâm hạt vào nước ấm (2 sôi, 3 lạnh) trong 15 – 30 phút. Vớt ra để ráo nước, đem gieo theo rạch cách nhau 20 – 25cm, sâu 5 – 6cm. Dùng đất mịn lấp kín hạt và tưới đủ ẩm. Cắm ràng hoặc phên che bóng 30 – 40%. Làm cỏ và xới xáo thường xuyên.
– Tiêu chuẩn cây con đem trồng: cao 10 – 15cm, có 3 – 4 lá, không sâu bệnh.
– Thời vụ trồng: vụ xuân khi có mưa phùn hoặc đầu mùa mưa hoặc vụ thu.
– Trồng theo hố hoặc theo rạch rộng 0,8 – 1m.
– Làm đất theo hố, kích cỡ 30 x 30 x 30cm.
– Trồng bằng cây con rễ trần nhưng phải giữ được đất tự nhiên bao quanh rễ. Đào đất đặt cây ngay ngắn, lấp đất đầy hố, nén chặt. Cào đất vun lấp đầu cao hơn miệng hố 5 – 6cm. Tủ cỏ, lá khô kín mặt hố.
2. Chăm sóc
– Phát dọn cây cỏ xâm lấn, vun xới đất quanh gốc cây rộng 0,5 – 0,8m.
– Làm cọc cho cây leo.
– Điều tiết độ tàn che từ 0,4 – 0,5.
Cách chế biến củ bình vôi
Bạn chỉ cần mua củ bình vôi về cạo sạch lớp vỏ đen bên ngoài rồi thái mỏng, phơi khô, sắc lấy nước, tán thành bột mịn rồi pha với nước sôi như hãm trà hoặc ngâm rượu uống. Ngoài ra, dùng rượu củ bình vôi bóp lên vùng khớp bị tổn thương cũng giúp làm giảm sưng đau đáng kể đấy. Tuy nhiên có 1 lưu ý nhỏ khi dùng củ bình vôi chữa bệnh gout là không nên dùng với liều lượng quá lớn dễ bị “say” – tức là ngộ độc. Thích hợp nhất là người lớn nên dùng tối đa là 6g mỗi ngày, trẻ nhỏ dưới 1 tuổi không nên sử dụng, từ 1 – 10 tuổi cũng chỉ nên giới hạn 0,03 – 0,05g mỗi ngày.
Củ giống bình vôi đỏ mua ở đâu uy tín chất lượng ?
Địa chỉ: Ngách 68/45, ngõ 68, đường Nguyễn Văn Linh, phường Long Biên, thành phố Hà Nội.
- Quý khách xin vui lòng liên hệ với Cây cảnh Hải Đăng để được các chuyên viên của chúng tôi tư vấn lựa chọn sản phẩm củ bình vôi đỏ phù hợp.
- Chúng tôi sẽ chụp ảnh sản phẩm cho quý khách nếu có yêu cầu.
- Chúng tôi sẽ kiểm tra kỹ hàng hóa đảm bảo chất lượng và đúng quy cách trước khi giao.
- Quý khách ở xa vui lòng tiến hành chuyển khoản trước hoặc đặt cọc trước. Nếu quý khách ở nội thành có thể áp dụng ship nhanh với chi phí 50k một lần ship.