Độ hoàn thiện nội dung: 80%.
Thạch xương bồ hay thủy kiếm thảo, nham xương bồ, … tên tiếng Anh là Japanese sweet flag, Japanese rush, grassy-leaved sweet flag, grass-leaf sweet flag, … (danh pháp khoa học là Acorus gramineus Aiton) là một loài thực vật có hoa trong họ Xương bồ Acoraceae.
Thạch xương bồ (Rhizoma Acori graminei) là thân rễ phơi khô của cây thạch xương bồ Acorus gramineus Aiton.
Thuỷ xương bồ (Rhizoma Acori calami) là thân rễ phơi khô của cây thuỷ xương bồ Acorus calamus L.
Xương là phồn thịnh, bồ là một thứ cỏ; xương bồ là một thứ cỏ bồ mọc chi chít.

Mô tả cây thạch xương bồ
Cây xương bồ – Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi (đã sửa chính tả):
Thạch xương bồ là một loại cỏ sống lâu năm, có thân rễ mọc ngang, đường kính to bằng ngón tay, có nhiều đốt, trên có những sẹo lá. Lá mọc đứng hình dải, dài 30 – 50cm, rộng 2 – 6mm, chỉ có gân giữa. Hoa mọc thành bông mo ở đầu một cán dẹt dài 10 – 30cm, cán này được phủ bởi một lá bắc, lá bắc này dài 7- 20cm, rộng từ 2 – 4mm vượt cao hơn cụm hoa rất nhiều, làm cho cụm hoa trông như lệch sang một bên, dài từ 5 – 12cm, đường kính 2 – 4mm. Quả mọng màu đỏ nhạt, một ngăn, có thành gần như khô. Quanh hạt có một chất gôm nhầy.
Cây xương bồ – Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – Tập II – Đỗ Huy Bích cùng các tác giả khác (đã sửa chính tả):
Cây thảo sống lâu năm, cao khoảng 0,5m. Thân rễ phân nhánh, mọc bò ngang, chia đốt, dài 5 – 30cm, bám vào đá ở nơi có nước chảy. Lá hình dải, có bẹ mọc ốp vào nhau thành hai dãy đối xứng, dài 10 – 50cm, rộng 0,4 – 0,8cm, những lá phía dưới ngắn và hẹp hơn lá phía trên, đầu lá thuôn nhọn, hai mặt nhẵn, gân song song, gân giữa không nổi gồ.
Cụm hoa mọc ở đầu một cán dẹt giữa túm lá thành bông mo, tiếp đó là một lá bắc to và dài dạng lá, vượt cao hơn cụm hoa rất nhiều, nom như cụm hoa mọc trên lá; bông hình trụ thuôn dần và hơi cong ở phần đỉnh, dài 5 – 10cm, mang rất nhiều hoa lưỡng tính; bao hoa có 6 thùy, gồm 3 lá đài và 3 cánh hoa; nhị 6, chỉ nhị ngắn; bầu thuôn, gân hình trụ, có nhiều noãn. Quả mọng, khi chín màu đỏ nhạt. Mùa hoa quả: tháng 3 – 6.
Cây có 3 thứ là A. gramineus var. pusillus (Siebold ex Miq.) Engl. (thạch xương bồ lá nhỏ), A. gramineus var. variegatus (thạch xương bồ lá nhỡ) và A. gramineus var. macrospadiceus Yamam. (thạch xương bồ lá to). Hai thứ sau do Phạm Xuân Sinh (Trường đại học Dược) phát hiện ở huyện Đại Từ, tỉnh Bắc Thái.



Thông tin thêm
1. Phân bố và sinh thái
Cây xương bồ – Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – Tập II – Đỗ Huy Bích cùng các tác giả khác (đã sửa chính tả):
Chi Acorus L. vốn được xếp trong họ phụ Pothoideae. Gần đây, qua nghiên cứu về hình thái giải phẫu, tế bào và ADN, có người tách thành họ riêng là Acoraceae. Họ này gồm một số loài hay dưới loài (var.) phân bố rải rác khắp các vùng khí hậu từ ôn đới đến cận nhiệt đới và nhiệt đới. Ở Việt Nam, chi Acorus L. có 4 – 5 loài và dưới loài, tất cả đều được dùng làm thuốc.
Loài thạch xương bồ phân bố chủ yếu ở vùng có khí hậu cận nhiệt đới và nhiệt đới như Nhật Bản, Trung Quốc, Ấn Độ, Sri Lanka, các nước ở bán đảo Đông Dương và vùng Đông – Nam Á (Thái Lan, Malaysia … ). Ở Việt Nam, thạch xương bồ cũng phân bố rộng rãi ở các tỉnh miền núi từ bắc vào nam. Đôi khi còn thấy cây sót lại ở một vài điểm thuộc vùng trung du. Độ cao phân bố từ vài trăm đến 1800m (vùng thác Bạc đèo Hoàng Liên Sơn).
Thạch xương bồ là cây sống bán thủy sinh, ưa bóng, mọc thành khóm lớn, bám trên đá dọc theo các suối dưới tán rừng. Cây có thể chịu được ngập nước toàn phần trong vài ba ngày. Thân rễ có hệ thống rễ chùm bám chắc trên bề mặt đá, nên dù nước chảy xiết thường xuyên, cây vẫn sinh trưởng phát triển bình thường. Thân rễ thạch xương bồ có khả năng đẻ nhánh khỏe, ra hoa quả hàng năm; hạt phát tán nhờ dòng nước; tái sinh dinh dưỡng mạnh nên có thể trồng được bằng các nhánh non.
Việt Nam có nguồn thạch xương bồ khá phong phú. Cây thường xuyên được khai thác đến vài chục tấn mỗi năm để cung cấp cho nhu cầu trong nước; gần đây còn được xuất khẩu qua biên giới phía bắc. Những tỉnh hiện còn nhiều thạch xương bồ như Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Nam, Quảng Ngãi và các tỉnh ở Tây Nguyên. Để bảo vệ nguồn dược liệu quý này, trước hết trong vòng 5 năm tới, cần tạm ngừng khai thác ở các tỉnh phía bắc, tập trung chủ yếu ở các tỉnh miền Trung và Tây Nguyên. Chú ý khi khai thác chừa lại những nhánh non cho cây tiếp tục sinh trưởng, phát triển.
2. Thành phần hóa học
Cây xương bồ – Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi (đã sửa chính tả):
Trong thạch xương bồ có chừng 0,5 – 0,8% tinh dầu, trong tinh dầu có chừng 86% asarone C12H16O3. Ngoài ra còn có một chất phenol và axit béo.
Tinh dầu có tỷ trọng 1,058 ở 15o, chỉ số xà phòng 1,3 chỉ số este 5,79 độ sôi 140 – 160o ở 6mm thuỷ ngân.
Trong thủy xương bồ có 1,5 – 3,5% tinh dầu, trong đó thành phần chủ yếu cũng là asarone C12H16O3 (2,4,5-trimethoxyphenyl-2-propene). Ngoài ra còn một glucoside đắng gọi là acorin và chất tanin.
Cây xương bồ – Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – Tập II – Đỗ Huy Bích cùng các tác giả khác (đã sửa chính tả):
Thân rễ thạch xương bồ chứa tinh dầu trong đó có α-asarone; β-asarone; γ-asarone; gramenone … Thân rễ còn có … shyobunone; …(Trung dược Từ Hải III, 1997). α-asarone được chiếu tia ở môi trường ethanol khan dưới ánh sáng UV trong 5 giờ, sẽ cho bisasaricin. (Tang và cs, 1992; Trung dược Từ Hải III, 1997).
Ở Việt Nam, thạch xương bồ lá nhỡ chứa 0,34 – 0,41% tinh dầu trong đó có myrcene; camphor; cis-methylisoeugenol; α-asarone; β-asarone và shyobunone (Phạm Xuân Sinh, 1987, Luận án tiến sĩ).
Thạch xương bồ lá to chứa 1,00 – 2,00% tinh dầu trong đó có camphene; δ-cadinene; α-asarone; β-asarone 74,60% và shyobunone, azulene (Phạm Xuân Sinh, 1987, Luận án tiến sĩ).
Theo Trung dược Từ Hải III, 1997, tinh dầu thân rễ và lá thạch xương bồ chưa caryophyllene, α-humulene.
Thân rễ còn chứa (2R,6R)-oct-7-ene-2,6-diol, một aliphatic alcohol (Ki Hyun Kim et al.; 2015). Ngoài ra còn có hai đồng phân lập thể mới của phenylpropanoid là acoraminol A (1) và acoraimol B (2); các hợp chất phenolic khác là β-asarone (3), asaraldehyde (4), isoacoramone (5), propioveratrone (6), (1′R,2′S)-1′,2′-dihydroxyasarone (7), (1′S,2′S)-1′,2′-dihydroxyasarone (8), 3′,4′-dimethoxycinnamyl alcohol (9), 3′,4′,5′-trimethoxycinnamyl alcohol (10), kaempferol 3-methyl ether (11), 2-[4-(3-hydroxypropyl)-2-methoxyphenoxy]-1,3-propanediol (12), hydroxytyrosol (13), tyrosol (14), (2S,5S)-diveratryl-(3R,4S)-dimethyltetrahydrofuran (15), (7S,8R)-dihydrodehydrodiconiferyl alcohol (16), 7S,8S–threo-4,7,9,9′-tetrahydroxy-3,3′-dimethoxy-8-O-4′-neolignan (17), 7S,8R–erythro-4,7,9,9′-tetrahydroxy-3,3′-dimethoxy-8-O-4′-neolignan (18) và dihydroyashsbushiketol (19) (Cheol Hyeong Park et al.; 2011).

3. Tác dụng dược lý
Cây xương bồ – Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi (đã sửa chính tả):
Uống vào, xương bồ xúc tiến sự phân tiết các dịch tiêu hoá và hạn chế sự lên men không bình thường của dạ dày và ruột.
Xương bồ còn làm bớt sự căng thẳng của cơ trơn trong ruột. Ngoài ra nó hơi có tác dụng kích thích đối với da, do đó có thể tăng cường máu chạy mạnh hơn tại một nơi nào trên cơ thể.
Theo sự nghiên cứu của Trịnh Vũ Phi (198 Trung hoa y học tạp chí 38(4):315 – 318) trong ống nghiệm thì xương bồ có tác dụng sát khuẩn đối với một số khuẩn ngoài da. Năm 1966, Nguyễn Ngọc Doãn, Nguyễn Địch Thế Kỳ và Vũ Anh Vĩnh (Tạp chí y học Việt Nam, tập I, tr. 8 – 14) đã nghiên cứu tác dụng của xương bồ trên thực nghiệm và trên lâm sàng đã đi tới kết luận:
– Xương bồ có tác dụng dự phòng và điều loạn nhịp tim gây ra trên động vật (thỏ và chuột) bằng clorua bary, strophantin, hoặc thắt động mạch vành trái. Các súc vật đều được theo dõi bằng điện tâm đồ, huyết áp và nhịp thở. Khi xương bổ định nhịp tim thì huyết áp và nhịp thở động vật không bị rối loạn, sóng R của điện tâm đồ đều cao lên.
– Trong lâm sàng, xương bồ có tác dụng điều hòa nhịp tim trong các trường hợp: nhịp xoang nhanh, nhịp đa hiệp xoang nút, ngoại tâm thu thành chuỗi. Nhưng có trường hợp không có kết quả đối với trung tâm nhĩ hoặc ngoại tâm thu, nhịp hai nhịp ba đã có khá lâu.
– Xương bồ có thể dùng kéo dài hàng tháng mà không gây độc, đáp ứng rất tốt trong điều trị ở bệnh viện cũng như ngoại trú. Liều lượng hàng ngày 10 – 15ml cao rượu thân rễ khô (1ml cao rượu: 1g xương bồ).
Cây xương bồ – Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – Tập II – Đỗ Huy Bích cùng các tác giả khác (đã sửa chính tả):
Tác dụng của thạch xương bồ được nghiên cứu ít hơn nhiều so với thủy xương bồ. Phân đoạn tan trong hexan chiết tách từ cao methanol của thạch xương bồ có hoạt tính ức chế mạnh trên tụ cầu vàng kháng nhiều thuốc, trong dó benzoic acid phenyl methyl ester được xác định là hoạt chất. Cao nước của thân rễ khô thạch xương bồ làm giảm hoạt tính vận động tự nhiên của chuột nhắt trắng, làm tăng thời gian của giấc ngủ gây bởi pentobarbital một cách phụ thuộc vào liều, và gây hạ huyết áp.
Cao thạch xương bồ cải thiện sự suy giảm trí nhớ gây bởi rượu, nhưng không cải thiện sự suy giảm trí nhớ do nguyên nhân khác ở chuột nhắt trắng. Cao thạch xương bồ (250mg và 500mg cho 1kg uống) không ảnh hưởng đến phản ứng tránh né thụ động của chuột nhắt trắng bình thường trong thử nghiệm bước vượt qua và bước đi xuống, những phản ứng tránh né có điều kiện và không điều kiện của chuột nhắt trắng bình thường trong thử nghiệm hộp con thoi và ấn đòn bẩy. Các thành phần α-asarone, β-asarone và γ-asarone của thạch xương bồ có tác dụng chống co thắt cơ trơn khí quản và hồi tràng có lập chuột lang gây bởi acetylcholin, histamin, serotonin và bari clorid, trong đó α-asarone có tác dụng mạnh nhất.
Trong chi Acorus, tinh dầu là thành phần chính có hoạt tính sinh học. Tinh dầu của các loài Acorus mọc ở Việt Nam chứa β-asarone với hàm lượng cao là chất có tác dụng gây ung thư. Khi đồng phân hóa β-asarone thành α-asarone, tính chất độc hại giảm. Các sản phẩm sau khi đồng phân hóa (tinh dầu và β-asarone) vẫn có các tác dụng dược lý như an thần, gây ngủ, chống co thắt cơ trơn, hạ huyết áp.


Công dụng của thạch xương bồ theo Y học cổ truyền
Thạch xương bồ có vị cay, đắng, mùi thơm, tính ấm, vào 3 kinh tâm, đởm, can, có tác dụng khai khiếu, hóa đàm, giải độc, sát trùng, mạnh tâm thần, tán phong, trừ thấp.
Thạch xương bồ được dùng làm thuốc chữa phong thấp nhức xương, tiêu hóa kém, đau dạ dày, cảm sốt, cảm gió, tiêu chảy, rắn cắn. Dùng ngoài, nước nấu thạch xương bồ dùng tắm chữa bệnh ngoài da, rửa chữa trĩ. Ngoài ra, thuốc còn có tác dụng trừ sâu bọ, cháy rận. Ngày dùng 3 – 8g dạng thuốc sắc hoặc hoàn tán. Thường phối hợp với các vị thuốc khác.
Kiêng kỵ: Âm hư, hoạt tinh, ra nhiều mồ hôi không nên dùng thạch xương bồ.
Trong y học cổ truyền Trung Quốc, thạch xương bồ được dùng dưới dạng nước hãm hoặc bột để có tác dụng làm ăn ngon, trừ giun, trị tiêu chảy, chướng bụng. Thuốc còn có tác dụng giảm đau, an thần, hạ nhiệt, chống co giật động kinh, chảy máu và ngộ độc dầu ba đậu. Khi dùng dạng thuốc bột hay nước hãm, thạch xương bồ làm tăng thính giác, thị giác, thêm sức mạnh và nghị lực. Thạch xương bồ còn làm tăng lưu thông máu, và có tác dụng long đờm.
Uống hoặc ngâm thuốc sắc hoặc thuốc hãm của thạch xương bồ chữa đau răng, chảy máu lợi. Còn dùng dạng bột, mỗi lần uống 0,5 – 2g.
Bài thuốc có thạch xương bồ
1. Chữa đau dạ dày
Dạng thuốc viên có thạch xương bồ 0,025g; đại hoàng 0,025g; natri bicarbonat 0,2g; magnesi carbonat 0,4 g; bismuth bazơ nitrat 0,35g. Ngày uống 3 lần, mỗi lần 1 – 2 viên sau bữa ăn. Thời gian điều trị liên tục trong 1 – 3 tháng. Sau khi nghỉ một tháng lại tiếp tục đợt khác.
2. Chữa ho lâu ngày
Lá tươi thạch xương bồ giã nhỏ với hạt chanh, hạt quất, mật gà đen (liều lượng bằng nhau), thêm đường hấp cơm uống. Mỗi ngày 4 – 6g.
3. Chữa suyễn mạn tính
Thạch xương bồ 12g; tang bì 10g; khoản đông hoa, thanh bì, cát cánh, ma hoàng, mỗi vị 8g; tiền hồ, tô tử, mỗi vị 6g; cúc bách nhật 12 bông, gừng sống 5 lát. Sắc uống ngày một thang. Khi uống, mỗi thang thêm 2g phèn phi, 2g phèn sống tán.
4. Chữa cảm lạnh, cấm khẩu, loạn nhịp tim, chân tay nhức mỏi, đầy bụng, ỉa chảy
Thân rễ thạch xương bồ sắc uống mỗi ngày 8g.
5. Chữa các chứng phong cấm khẩu bại liệt nửa người, trị trẻ em kinh giản
Thạch xương bồ (1 phần), bồ kết (bỏ hạt), tỏi, nhũ hương, phòng phong, thương truật, xuyên khung, khổ tử, hạt đậu gió, đều bằng nhau (1 phần), viên với hồ, dùng hùng hoàng làm áo, mỗi lần uống 1 viên bằng hạt ngô đồng, trẻ em uống nửa viên với nước thang riêng tùy theo chứng bệnh.
6. Chữa trúng phong bại liệt một bên (thuốc xoa bóp)
Thạch xương bồ, rau sam, dây bìm bìm, nghệ, lá cây đậu gió (thân phong điệp), huyết giác, mỗi vị 12g, quế chi 20g; hồi hương, đinh hương đều 12g; các vị đều tán nhỏ, trộn với 1 bát rượu và 1 chén nước tiểu mà bóp.
7. Lục quân gia giảm
Thạch xương bồ 4g, rau má 10g, đẳng sâm 8g, thổ phục linh 8g, bạch giới tử 8g, bạch truật 6g, bạch biển đậu 6g, đương quy 6g, bạch thược 6g, cam thảo 4g, sa nhân 4g, trần bì 4g. Đã áp dụng cho 1 bệnh nhi sốt cao, sau đó bị câm và liệt nửa người. Sau khi uống hết 18 tháng, bệnh nhi hoàn toàn bình phục.
8. Giải nhiệt, lương huyết, khử hủy thấp, giải độc, có thể áp dụng điều trị hỗ trợ bệnh AIDS
Thạch xương bồ, hoạt thạch, nhân trần, hoàng cầm, mộc thông, xuyên bối mẫu, xạ can, liên kiều, bạc hà, nhục đậu khấu, hoắc hương (lượng bằng nhau). Bào chế thành hoàn, mỗi lần dùng từ 8 – 12g.
9. Chữa viêm thanh quản, nói không ra tiếng
Thạch xương bồ, tri mẫu, mỗi vị 12g; trần bì, phục linh, bán hạ chế, cát cánh, bối mẫu, mỗi vị 8g; cam thảo 6g. Tán bột, mỗi ngày uống 10g, chia 2 lần uống.
10. Chữa đái ra dưỡng trấp
Thạch xương bồ 8g, tỳ giải 20g, ích trí nhân 16g, phục linh, hoạt thạch, mỗi vị 12g; ô dược 8g, cam thảo 6g, muối ăn 4g. Các dược liệu, trừ hoạt thạch, sắc. Khi uống nước sắc cho thêm hoạt thạch. Ngày một thang.
11. Chữa chứng cuồng
Thạch xương bồ 8g; bá tử nhân, mức hoa trắng, thiên môn, mạch môn, mỗi vị 12g; chi tử, tâm sen, táo nhân, mỗi vị 10g; đởm tinh 8g. Sắc uống ngày một thang.
12. Chữa động kinh
Thạch xương bồ 8g, đẳng sâm 16g; thiên ma, viễn chí, cương tàm, phục linh, đởm nam tinh, bán hạ chế, phục thần, mạch môn, toàn yết, mỗi vị 12g; hổ phách, bối mẫu, chu sa, trần bì, mỗi vị 6g Tán thành bột. Lấy nước trúc lịch, gừng, cam thảo nấu thành cao trộn với bột trên, làm thành viên. Ngày dùng 40g, chia làm 2 lần uống. Nên uống trước khi lên cơn.
13. Chữa giai đoạn hồi phục và có di chứng của viêm não Nhật Bản B (di chứng tinh thần)
Thạch xương bồ 6g, mẫu lệ 16g; quy bản, sinh địa, mạch môn, thạch quyết minh mỗi vị 12g; sa sâm, địa long, mỗi vị 8g. Sắc uống ngày một thang.
14. Chữa bệnh bại liệt trẻ em ở giai đoạn bệnh trước khi liệt
Thạch xương bồ 8g, kim ngân 16g; sinh địa, tang chi, lá tre, mỗi vị 12g; mức hoa trắng, chi tử, huyền sâm, địa long, mỗi vị 8g; hoạt thạch 6g. Sắc uống.
15. Chữa bệnh bạch hầu thể biến chứng nhiễm độc gây viêm cơ tim
Thạch xương bồ 8g, đẳng sâm 40g, mạch môn 16g, ngũ vị tử 6g, cam thảo 4g. Sắc uống ngày một thang.
16. Chữa kinh nguyệt không đều
Thạch xương bồ 8g, đẳng sâm 16g; thục địa, ngải cứu, mỗi vị 12g; đương quy, xuyên khung, bạch thược, ngô thù, trần bì, mỗi vị 8g. Sắc uống trong ngày.
Cách trồng thạch xương bồ
Cây xương bồ – Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – Tập II – Đỗ Huy Bích cùng các tác giả khác (đã sửa chính tả):
Thạch xương bồ ưa đất ẩm ướt và mát, nhất là dưới bóng cây. Cây trồng được trong vườn vừa làm cảnh vừa làm thuốc. Trồng bằng cách tách mầm, cắt bớt lá, rồi giâm ở nơi ẩm mát với khoảng cách 30 x 30cm. Cần giữ ẩm cho cây, không cần chăm sóc. Có thể tưới nước phân. Hầu như không có sâu bệnh.
Thân rễ đào về, rửa sạch đất cát, xếp lên giàn, đốt lửa cho cháy hết rễ con và giảm bớt độ ẩm. Sau đó, dùng dao cắt thành từng đoạn 8 – 15cm. đem phơi nắng hay sấy ở 50 – 60oC đến khô.
Cây thạch xương bồ mua ở đâu uy tín chất lượng ?
Địa chỉ: Ngách 68/45, ngõ 68, đường Nguyễn Văn Linh, phường Long Biên, thành phố Hà Nội.
- Quý khách xin vui lòng liên hệ với Cây cảnh Hải Đăng để được các chuyên viên của chúng tôi tư vấn lựa chọn sản phẩm cây thạch xương bồ phù hợp.
- Chúng tôi sẽ chụp ảnh sản phẩm cho quý khách nếu có yêu cầu.
- Chúng tôi sẽ kiểm tra kỹ hàng hóa đảm bảo chất lượng và đúng quy cách trước khi giao.
- Quý khách ở xa vui lòng tiến hành chuyển khoản trước hoặc đặt cọc trước. Nếu quý khách ở nội thành có thể áp dụng ship nhanh với chi phí 50k một lần ship.
Tài liệu tham khảo
- Cây xương bồ – Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi.
- Cây xương bồ – Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – Tập II – Đỗ Huy Bích cùng các tác giả khác.
- Ki Hyun Kim, Hee Rae Kang, Hee Jeong Eom, Chung Sub Kim, Sang Un Choi, Kang Ro Lee (2015). “A new aliphatic alcohol and cytotoxic chemical constituents from Acorus gramineus rhizomes”. Bioscience, Biotechnology, and Biochemistry. 79(9):1402 – 5.
- Cheol Hyeong Park, Ki Hyun Kim, Il Kyun Lee, Seung Young Lee, Sang Un Choi, Jei Hyun Lee & Kang Ro Lee (2011). “Phenolic constituents of Acorus gramineus“. Archives of Pharmacal Research. 34(8):1289 – 96.








