Tam thất bắc hay sâm tam thất, kim bất hoán, điền thất nhân sâm, tam sao thất bản, tên tiếng Anh là pseudoginseng, Nepal ginseng and Himalayan ginseng (danh pháp khoa học là Panax pseudoginseng Wall.) là một loài thực vật có hoa họ Nhân Sâm Araliaceae. Tam thất mọc tự nhiên ở Trung Quốc và Nhật Bản.
Trong cuốn sách Từ điển cây thuốc Việt Nam bộ mới (nhà xuất bản Y học 1997), tác giả Võ Văn Chi giải thích cho tên gọi tam thất có thể là do cây có từ 3 hoặc 7 lá chét; cũng có lý do khác là từ khi gieo tới khi ra hoa là 3 năm và thu củ là 7 năm.


Mô tả cây tam thất bắc
Tam thất là một cây thân thảo có lá màu xanh đậm phân nhánh từ thân cây, ở giữa có một chùm quả màu đỏ. Nó được trồng hoặc thu thập từ rừng hoang, với cây hoang dại có giá trị cao hơn. Người Trung Quốc gọi nó là “rễ ba-bảy” vì cây có ba nhánh với mỗi nhánh có bảy lá. Cũng có nói rằng rễ phải được thu hoạch sau ba đến bảy năm sau khi trồng.
Thông tin thêm về tam thất bắc
1. Phân bố, thu hái và chế biến
Cây tam thất được trồng từ lâu nhưng với một lượng ít ở tỉnh Hà Giang (Đồng Văn), Lào Cai (Mường Khương, Bát Xát, Phà Lùng), Cao Bằng, … tại các vùng núi cao 1.200 – 1.500m. Cần chọn những nơi sườn núi ít gió mạnh, phải làm dàn che nắng và phải rào để bảo vệ chống chuột, sóc hay đến ăn củ. Đất phải được bón phân và chuẩn bị kỹ từ một năm trước, chia thành luống dọc cách nhau 1 mét. Tháng 10 – 11 chọn những hạt ở những cây đã mọc 3 – 4 năm. Gieo ngay vào vườn ươm. Tháng 2 – 3 năm sau mới mọc. Một năm sau, vào tháng 1 – 2 có thể đào bằng cây con, cắt bỏ lá gốc, trồng vào ruộng chính thức.
Sau 3 đến 7 năm mới bắt đầu thu hoạch. Thường cây càng lâu năm rễ củ càng to. Sau khi rửa sạch bùn đất, cắt bỏ rễ con, đem phơi nắng cho hơi héo, đem lăn, vò cho mềm, lại phơi nắng và vò hoặc lăn, làm như vậy từ 3 đến 5 lần mới phơi cho khô hẳn. Có khi người ta cho vào túi gai lắc cho rễ thành đen bóng là được.
Giá trị thu mua căn cứ vào trọng lượng củ. Người ta chia ra.
– Loại 1: 105 – 130 củ nặng 1kg
– Loại 2: 160 – 220 củ nặng 1kg
– Loại 3: 240 – 260 củ nặng 1kg
Cây tam thất còn được trồng ở Trung Quốc: Văn Nam, Quảng Tây, Tứ Xuyên, Hồ Bắc, Giang Tây. Vân Nam trồng nhiều nhất và tam thất Văn Nam được coi là tốt nhất.
2. Thành phần hóa học
Cây tam thất – Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi (những thông tin này hiện tại đã không còn chính xác):
Năm 1937 – 1941, hai tác giả Trung Quốc Triệu Thừa Cổ và Chu Nhiệm Hoàng đã nghiên cứu và lấy được từ tam thất hai chất saponin: Arasaponin A và arasaponin B.
Arasaponin A là một chất bột, dễ tan trong rượu metylic, etylic và amylic, hơi tan trong nước, không tan trong ete và axeton, độ chảy 195 – 210oC, năng suất quay cực +23o, kết hợp với axit acetic cho một chất có tinh thể với công thức C30H45O10(CH3O)7 có độ chảy 256o. Thủy phân bằng axit loãng sẽ cho arasapogenin A C17H30O5, đường và hai chất có tinh thể: một chất có độ chảy 244o, một chất có độ chảy 252o.
Arasaponin B (C22H38O10) cũng là một chất bột dễ tan trong nước và rượu metylic, hơi tan trong rượu etylic và rượu amylic, độ chảy 190 – 200o, độ quay cực +8o. Thủy phân bằng axit trong dung dịch rượu sẽ cho arasapogenin B C29H32O3 có độ chảy 247o và đường trong đó có glucose.
Năm 1950, Hứa Thực Phương chiết được từ tam thất ba chất saponin: Saponin A C48H50O20, tan trong rượu amylic nóng và một saponin không tan trong rượu amylic nóng.
Kết hợp với axit acetic khô kiệt, sẽ được một chất có tinh thể C29H5O3(CH3CO) có độ chảy 216o.
Báo cáo khoa học “Các hợp chất khung saponin khung dammarane từ rễ cây tam thất (Panax pseudoginseng)” của Hoàng Văn Hùng, Lục Quang Tấn; TNU Journal of Science and Technology; 227(11): 3 – 11; 2022:
Từ dịch chiết methanol của rễ cây tam thất (Panax pseudoginseng), sáu hợp chất saponin có khung dammarane đã được phân lập. Các hợp chất được xác định là (20S)-ginsenoside Rh1 (1), (20R)-ginsenoside Rh1 (2), ginsenoside Rk3 (3), 6-acetoxy-ginsenoside Rh1 (4), ginsenoside F1 (5), và ginsenoside Rg3 (6) bằng phân tích các phổ khối lượng phân giải cao (HR-ESI-MS), phổ cộng hưởng từ hạt nhân một chiều (1D NMR) và hai chiều (2D NMR), kết hợp so sánh với các dữ liệu đã được công bố. Kết quả đánh giá sàng lọc hoạt tính ức chế sản sinh NO đối với tế bào RAW264,7 kích thích bởi LPS cho thấy cả 6 hợp chất này đều có hoạt tính khá tốt. Hợp chất 1 – 6 thể hiện hoạt tính ức chế sản sinh NO trong các tế bào RAW 264,7 được kích thích bởi LPS với giá trị IC50 = 17,32 ± 1,56 ~ 34,61 ± 2,72 µM, so với giá trị tương ứng của chất đối chứng NG-monomethyl-L-arginine (L-NMMA), IC50 = 9,80 ± 0,78 µM. Kết quả này giúp làm rõ thêm về thành phần hóa học của rễ cây tam thất ở Việt Nam. Hơn nữa, kết quả sàng lọc hoạt tính trên gợi mở cho những nghiên cứu tiếp theo đối với các sản phẩm kháng viêm và tăng cường khả năng miễn dịch của rễ cây tam thất.
3. Tác dụng dược lý
Cây tam thất – Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi (những thông tin này hiện tại đã không còn chính xác):
Năm 1937, hai tác giả Triệu Thừa Cổ và Chu Nhiệm Hoàng đã nhận xét thấy tính chất các saponin trong tam thất không giống các saponin thường: Rất ít độc đối với cá: Thả cá vàng vào dung dịch 1/1.000 hoặc 1/500 sau 24 giờ không có hiện tượng trúng độc. Tiêm vào chó đánh mê bằng ête, 1 – 20mg arasaponin A hoặc B không thấy có sự thay đổi rõ rệt đối với huyết áp, với tim và hò hấp. Đối với khúc ruột cô lập của thỏ và tử cung cô lập của chuột bạch không có sự thay đổi.
Đoàn Thị Nhu, Vũ Thị Tâm và Nguyễn Thị Thọ (Thông báo được liệu, 1977, 4, 14-20, Hà Nội) đã nghiên cứu tác dụng của tam thất trên súc vật thí nghiệm và đã đi đến một số kết luận sau đây:
- Rễ tam thất làm tăng khả năng hoạt động của súc vật thể hiện ở kéo dài thời gian bơi của lô chuột thử thuốc so với một lô đối chứng (những chuột này mang một cục chì nặng kẹp vào đuôi khi bơi để làm chóng mệt).
- Rễ tam thất có tác dụng làm tăng sức đề kháng của súc vật đối với yếu tố độc hại như liều độc uabain với tim, nhiệt độ môi trường xung quanh quá cao hoặc quá thấp vượt ngoài giới hạn điều hòa của cơ thể.
- Rễ tam thất có khả năng kháng lại hiện tượng giảm lượng prothrombin trong máu thỏ và giảm khả năng máu đông gây thực nghiệm với dicumarol.
- Rễ tam thất khác với nhân sâm không có tác dụng gây tăng huyết áp.
- Đối với tác dụng nội tiết:
a) Rễ tam thất thí nghiệm trên chuột cống cái non với liều 5g/kg uống trong 6 ngày đã làm tăng trọng lượng tử cung một cách có ý nghĩa so với lô đối chứng, chứng tỏ tam thất có tác dụng hướng sinh dục trên súc vật cái,
b) Rễ tam thất thí nghiệm trên chuột cống đực non với liều 5g/kg uống trong 6 ngày không làm thay đổi một cách có ý nghĩa trọng lượng tinh hoàn và tuyến tiền liệt so với chuột đối chứng, chứng tỏ tam thất không có tác dụng hướng sinh dục trên súc vật đực với liều này.
c) So sánh hoạt tính gây động đực của những rễ tam thất có độ tuổi khác nhau (3 năm và 5 năm) thì rễ tam thất 3 năm chỉ gây động dục 50% số súc vật thí nghiệm với liều 10g/kg trong khi rễ tam thất 5 năm gây cùng tác dụng này với liều 5g/kg. Điều đó chứng tỏ rễ tam thất 5 năm có hoạt tính gây động dục 2 lần mạnh hơn rễ tam thất 3 năm.
d) Nghiên cứu hoạt tính gây động dục của lá và rễ phụ tam thất và căn cứ vào những liều có tác dụng gây động dục với tỷ lệ súc vật tương đương để so sánh thì thấy lá tam thất có hoạt tính yếu hơn khoảng 20 lần và rễ phụ tam thất có hoạt tính yếu hơn khoảng 8 – 10 lần so với rễ củ tam thất 5 năm.
Nhận xét những kết quả trên đây chúng tôi thấy rằng liều 5g/kg nghĩa là 250g cho người nặng 50kg trong một ngày là không có trong thực tế. Thường nhân dân chỉ dùng 2 – 6g một ngày. Cho nên những dẫn liệu trên đây mới có giá trị tham khảo (Đỗ Tất Lợi).
Công dụng và liều dùng tam thất bắc
Theo tài liệu cổ: Tam thất vị ngọt, hơi đắng, tính ôn, vào 2 kinh can và vị. Có tác dụng hành ứ, cầm máu, tiêu thũng dùng chữa thổ huyết, chảy máu cam, lỵ ra máu, đẻ xong máu hỏi không sạch, ung thũng, bị đòn tổn thương.
Nhân dân coi tam thất là một vị thuốc cầm máu dùng trong các trường hợp chảy máu, bị đánh tổn thương, vì ứ huyết mà sưng đau. Ngày dùng 4 – 8g dưới dạng thuốc sắc hoặc thuốc bột. Dùng ngoài có tác dụng cầm máu tại chỗ.
Tại những nơi trồng tam thất, người ta coi tam thất là một vị thuốc bổ không kém nhân sâm, dùng thay nhân sâm.
Địa chỉ bán cây tam thất bắc tại Hà Nội uy tín ?
Địa chỉ: Ngách 68/45, ngõ 68, đường Nguyễn Văn Linh, phường Long Biên, thành phố Hà Nội.
- Quý khách xin vui lòng liên hệ với Cây cảnh Hải Đăng để được các chuyên viên của chúng tôi tư vấn lựa chọn sản phẩm bầu giống tam thất bắc phù hợp.
- Chúng tôi sẽ chụp ảnh sản phẩm cho quý khách nếu có yêu cầu.
- Chúng tôi sẽ kiểm tra kỹ hàng hóa đảm bảo chất lượng và đúng quy cách trước khi giao.
- Quý khách ở xa vui lòng tiến hành chuyển khoản trước hoặc đặt cọc trước. Nếu quý khách ở nội thành có thể áp dụng ship nhanh với chi phí 50k một lần ship.