Sửa chính tả và điều chỉnh lại nội dung: 21/3/2025;
Cây ngưu tất hay hoài ngưu tất, cỏ xước hai răng, cỏ sướt hai răng, tên tiếng Anh là ox knee (danh pháp khoa học là Achyranthes bidentata Blume) là một loài thực vật thuộc họ Dền Amaranthaceae, được trồng ở Ấn Độ, Nepal, Trung Quốc, Nhật Bản và Việt Nam, nhiều nơi còn gọi là cây cỏ xước rễ lớn.
Cây ngưu tất và cây cỏ xước (Achyranthes aspera L.) có cùng họ, hình dáng khá giống nhau nên nhiều người vẫn tưởng 2 cây này là 1. Thực tế rễ ngưu tất có kích thước lớn hơn rễ cỏ xước.



Mô tả cây ngưu tất
Cây ngưu tất là một loại cỏ xước cho nên người ta nhầm với cây cỏ xước (Achyranthes aspera L.). Cỏ có thân mảnh, hơi vuông, thường chỉ cao 1m, cũng có khi tới 2m. Lá mọc đối có cuống, dài 5 – 12cm, rộng 2 – 4cm, phiến lá hình trứng, đầu nhọn, mép nguyên. Cụm hoa mọc thành bông ở đầu cành hoặc kẽ lá. Cây ra vào tháng 5 – 9, kết quả vào tháng 10 – 11 có hình bầu dục, bên trong chứa 1 hạt hình trụ.
Thông tin thêm
1. Phân bố, thu hái và chế biến
Hiện ta đang trồng giống ngưu tất di thực của Trung Quốc có rễ to hơn cây cỏ xước mọc hoang ở khắp nơi trong nước ta. Có thể tìm loại cỏ xước ở nước ta dùng làm ngưu tất được. Rễ đào về rửa sạch, phơi hoặc sấy khô.
2. Thành phần hóa học
Cây ngưu tất – Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi (đã sủa chính tả):
Trong rễ ngưu tất người ta chiết xuất ra một chất saponin, khi thuỷ phân sẽ cho axit oleanolic C30H48O3 và galactose, rhamnose, glucose. Ngoài ra còn có ecdysterone, inokosterone và muối kali.
3. Tác dụng dược lý
Cây ngưu tất – Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi (đã sủa chính tả):
Trương Diệu Đức, Trương Phát Sơ và Lưu Thiệu Quang (1935, Trung Hoa y học tạp chí) đã dùng cao lỏng ngưu tất tiến hành 90 thí nghiệm trên tử cung có lập của thỏ, chuột bạch, mèo và chó (có chửa hoặc không có chửa) đi tới kết luận sau đây:
1. Cao lỏng ngưu tất có tác dụng làm dịu sức căng của tử cung chuột bạch (có chửa hay không có chửa cũng vậy).
2. Đối với tử cung của thỏ có chửa hay không, đều phát sinh tác dụng co bóp.
3. Cao lỏng ngưu tất có tác dùng làm dịu tử cung của mèo không có chửa nhưng đối với tử cung của mèo có chửa lại có tác dùng co bóp mạnh hơn.
4. Đối với tử cung của chó có chửa hay không có chửa, cao lỏng ngưu tất khi thì gây co bóp, khi thì gây dịu, tác dùng không nhất định, hoặc lúc đầu gây co bóp về sau có tác dụng dịu.
5. Tác dụng của cao lỏng ngưu tất có lẽ do tác dụng trực tiếp kích thích dây thần kinh phía dưới bụng.
Theo Kinh Lợi Bân, Viện nghiên cứu quốc lập Bắc Kinh, Sở nghiên cứu sinh lý học (1937) thì ngưu tất có tác dụng như sau:
1. Đối với động vật đã gây mê, ngưu tất có thể gây giảm huyết áp tạm thời, sau vài phút trở lại bình thường nhưng sau lại hơi tăng.
2. Ngưu tất có tác dụng làm yếu sức co bóp của tim ếch.
3. Ngưu tất có tác dụng ức chế sự co bóp của khúc tá tràng.
4. Ngưu tất hơi có tác dụng làm lợi tiểu.
5. Liều cao, ngưu tất có tác dụng kích thích sự vận động của tử cung.
Chất saponin của ngưu tất có tác dụng phá huyết và làm cho vốn anbumin (albumin).
Ecdysterone và inokosterone có tác dụng làm kìm hãm sự phát triển của một số sâu bọ.
Đoàn Thị Nhu phát hiện ngưu tất có tác dụng hạ cholesterol trong máu và tác dụng hạ huyết áp.
Công dụng chữa bệnh của ngưu tất
Tính vị theo đông y: Vị chua, đắng, bình, không độc, vào hai kinh can và thận. Có tác dụng phá huyết, hành ứ (sống), bổ can thận, mạnh gân cốt (chế biến chín).
Trong nhân dân, ngưu tất được dùng trong bệnh viêm khớp, đau bụng, kinh nguyệt khó khăn.
Ngày dùng 3 – 9g dưới dạng thuốc sắc. Người có thai không được dùng.
Viên ngưu tất (0,25 cao khô) hoặc thuốc ống (4g ngưu tất khô/ống) chữa bệnh cholesterol máu cao, huyết áp cao, vữa xơ động mạch. Ngày uống hai lần, mỗi lần 5viên hoặc một ống sau bữa ăn. Dùng liền 1 – 2 tháng lại nghỉ.
Bài thuốc tráng dương, tán hàn, trừ phong thấp, mạnh gân cốt, hòa huyết mạch. Trị lưng đau, gối mỏi, 2 chân yếu, chóng mặt, hoa mắt, tay chân lạnh của Triệu cát trong thánh tế tổng lục
Đan sâm 15g, Đỗ trọng 20g, Đương quy 30g, Hổ cốt 45g, Kim anh 15g, Ngưu tất (Hoài) 15g, Ngưu tất (Xuyên) 30g, Phong phong 15g, phụ tử (chế) 15g, Sinh địa 30g, Sơn thù 15g, Thạch hộc 15g, Tiên linh tỳ 30g, Tỳ giải 30g, Ý dĩ nhân 30g. Giã nát, cho vào túi vải, để vào bình, ngâm với 3 lít rượu. Mùa xuân, hạ: Ngâm 7 ngày. Mùa thu, đông: Ngâm 9 ngày. Mỗi ngày uống 2 ly, lúc bụng đói.
Điều trị xơ vữa động mạch, nhồi máu cơ tim, cholesterol cao, huyết áp cao
Rễ ngưu tất khô 5g, cây thành ngạnh (đỏ ngọn) 10g đun với 3 bát nước, đun cạn còn 1 bát nước uống sau bữa ăn 30 phút. Dùng liên tục khoảng 2 tháng lại nghỉ 1 đợt 3 ngày mới dùng lại. Uống khoảng 3 đợt là ổn định.
Điều trị bế kinh, tắc kinh: Ngưu tất 10g, ích mẫu 10g sắc uống trong ngày.
Địa chỉ bán ngưu tất tại Hà Nội uy tín ?
Địa chỉ: Ngách 68/45, ngõ 68, đường Nguyễn Văn Linh, phường Long Biên, thành phố Hà Nội.
- Quý khách xin vui lòng liên hệ với Cây cảnh Hải Đăng để được các chuyên viên của chúng tôi tư vấn lựa chọn sản phẩm cây ngưu tất phù hợp.
- Chúng tôi sẽ chụp ảnh sản phẩm cho quý khách nếu có yêu cầu.
- Chúng tôi sẽ kiểm tra kỹ hàng hóa đảm bảo chất lượng và đúng quy cách trước khi giao.
- Quý khách ở xa vui lòng tiến hành chuyển khoản trước. Nếu quý khách ở nội thành có thể áp dụng ship nhanh với chi phí 30,000 VNĐ một lần ship.