Độ hoàn thiện nội dung: 70%.
Sơn muối hay muối, dã sơn, diêm phu mộc, ngũ bội tử thụ, tên tiếng Anh là Chinese sumac, nutgall tree (danh pháp khoa học là Rhus chinensis Mill.) là một loài thực vật có hoa trong họ Đào lộn hột Anacardiaceae.



Ngũ bội tử hay bầu bí, bơ bật, … tên tiếng Anh là Chinese gall, Galla Chinensis hoặc wu bei zi (五倍子) trong tiếng Trung là cái tổ của con sâu ngũ bội tử (Schlechtendalia chinensis Bell) nằm trên cây muối (Rhus chinensis).


Mô tả cây muối và con ngũ bội tử
Ngũ bội tử (bầu bí) – Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi (đã sửa chính tả):
Cây muối là một cây nhỏ cao từ 2 đến 8m. Lá mọc so le, kép lông chiml lẻ, gồm 7 đến 14 lá chét. Cuống lá chung có đĩa như cánh, trên có những lông ngắn màu vàng nâu nhạt. Lá chét không cuống, hình trứng, mép có răng cưa to, thô, dài 5 – 14cm, rộng 2,5 – 9cm. Cụm hoa hình chùy mọc ở đầu cành, dài 20 – 30cm. Hoa nhỏ, màu trắng sữa. Quả hạch màu vàng cam đỏ, một hạt. Mùa hoa các tháng 8 – 9, mùa quả tháng 10
Khi cành non và cuống lá cây này bị một giống sâu đục thì sẽ xuất hiện những chỗ sùi lên hình dạng khác nhau dài từ 3 đến 6cm, khi thì giống quả trứng nhỏ, khi thì lại có nhiều nhánh. Trên mặt có lông mịn, ngắn màu xám nhạt, có chỗ màu đỏ nâu. Khi bẻ ta thấy thành dày 1 – 2mm, cũng bóng như sừng. Trong có những lông nhỏ trắng như sợi len và mảnh con sâu. Những chỗ sùi này được gọi là bầu bí (tiếng kinh), măc piêt (tiếng thổ Cao bằng), ngũ bội tử (tên vị thuốc).
Cây muối – Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – Tập I – Đỗ Huy Bích cùng các tác giả khác (đã sửa chính tả):
Cây nhỡ, cao 2 – 8m. Cành non có lông mềm màu hung. Lá kép lông chim lẻ, mọc so le, dài 25 – 40cm, có 9 – 13 lá chết mỏng, hình mũi mác, dài 8 – 10cm, rộng 4 – 6, gốc thuôn, đầu nhọn, mặt trên sỉn, mặt dưới nhạt, gân nổi rõ, mép khía răng; cuống lá hình trụ, có cánh nhiều hay ít. Lá thường bị một loại côn trùng châm và ấu trùng sâu gây nên những nướu sần sùi, to nhỏ không đều.
Cụm hoa mọc ở kẽ lá gần ngọn thành thùy rộng, phân nhiều nhánh; hoa nhỏ, màu trắng ngà; đài hợp có lông; tràng có cánh thuôn dài gấp 3 lần đài; nhị có chỉ nhị dài. Quả hạch, gần tròn, có lông mềm, màu vàng cam hoặc đỏ. Mùa hoa quả: tháng 10 – 1.
Thông tin thêm
1. Phân bố, thu hái và chế biến
Ngũ bội tử (bầu bí) – Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi (đã sửa chính tả):
Ở nước ta, ngũ bội tử chỉ mới có nhiều ở các tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn (Nước Hai, Nguyên Bình, Sóc Giang), Hà Giang (Quản Bạ). Lào Cai có một ít. Có thể một số vùng Tây Bắc gần biên giới Trung Việt cũng có.
Tại nhiều nước khác như Nhật Bản, Trung Quốc (Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam, Phúc Kiến …) cũng có. Vào khoảng tháng 5 – 6, con sâu ngũ bội tử (sâu cái) từ những cây trung gian hay đến cây muối hay diêm phu mộc, chích vào cành non và lá cây này, rồi đẻ trứng. Có thể do những chất kích thích thích tố đặc biệt của trứng và sâu non, những tế bào của cây phát triển đặc biệt, bất thường thành ngũ bội. Vào khoảng tháng 9, người ta hái về, hấp nước sôi từ 3 đến 5 phút để giết chết con sâu ở trong rồi phơi khô là được.
Trước đây hàng năm nước ta có thể sản xuất tới 30 – 40 tấn để xuất, nhưng sau chiến tranh, lượng sản xuất có giảm sút và chưa được phục hồi đúng mức.
Cây muối – Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – Tập I – Đỗ Huy Bích cùng các tác giả khác (đã sửa chính tả):
Chi Rhus L. có khoảng 200 loài trên thế giới, phân bố rộng rãi khắp các vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới ở cả hai bán cầu, song tập trung nhiều loài nhất ở những vùng khô hạn hay có thời tiết thay đổi rõ nét theo mùa. Tuy vậy, ở Australia lại có rất ít loài. Ở Việt Nam, chi này có 2 loài.
Cây muối có vùng phân bố bắt đầu từ Đông Ấn Độ đến Myanmar, Lào, Trung Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, Việt Nam, Thái Lan, Malaysia, Indonesia (Sumatra và Java). Cây cũng được trồng thêm ở Java để làm thuốc. Như vậy, vùng phân bố của cây muối bao gồm cả khu vực có khí hậu nhiệt đới điển hình lẫn vùng cận nhiệt đới. Ở Việt Nam, muối là cây gặp nhiều trong tự nhiên, phân bố rải rác khắp các tỉnh, từ vùng núi trung bình (1000m) xuống vùng núi thấp, trung du, đôi khi gặp cả ở vùng đồng bằng ven biển miền Trung và các đảo lớn.
Muối thuộc loại cây ưa sáng, có thể mọc được ở những nơi đất khô cằn (đồi cây bụi thấp), đất mới được khai phá hoặc ở vùng nương rẫy đã bỏ hoang. Ở một số địa phương thuộc huyện Quản Bạ, Yên Minh (tỉnh Hà Giang); Bảo Thắng, Bát Xát (tỉnh Lào Cai) có những vùng cây muối mọc khá tập trung. Cây thường mọc vượt lên các loại cây bụi thấp hoặc các bụi cỏ cao, ra hoa quả nhiều, về mùa đông khi quả già lá vàng úa và rụng đồng loạt. Cây muối tái sinh tự nhiên chủ yếu từ hạt. Phần thân và gốc còn lại sau khi bị chặt đều có khả năng tái sinh chồi.
Ngũ bội tử là tổ do côn trùng Melaphis chinensis (Bell) Baker tạo ra trên lá cây muối, thu hái vào mùa thu, nhúng vào nước sôi hoặc đồ cho đến khi mặt bên ngoài có màu xám (Dược điển Trung Quốc 1997, bản in tiếng Anh).
Ngũ bội tử âu lại do côn trùng khác tạo ra.



2. Thành phần hoá học
Ngũ bội tử (bầu bí) – Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi (đã sửa chính tả):
Ngũ bội tử của ta, có thành phần hóa học giống ngũ bội tử Trung Quốc. Độ ẩm 13,47%, chất tan vào nước gồm có tanin 43,20%, không tanin 13,20%, chất không tan 30,13%. Trong khi đó ngũ bội tử Trung Quốc có độ ẩm 13,27%, chất tan trong nước gồm tanin 42,5%, không tanin 10%, chất không tan 34,23%.
Nếu trừ độ ẩm đi rồi, tỷ lệ tanin của ngũ bội tử Việt Nam là 50%, loại tốt lên tới 60 – 70%, có khi tới 80%.
Tanin ngũ bội tử còn gọi là axit gallotannic. Thành phần hóa học chủ yếu là penta (digalloyl) glucose, trong đó một phân tử glucosa được kết hợp với 5 phân tử axit digallic tạo thành cấu trúc giống hình “chong chóng”, có khi một phần tanin gồm một phân tử glucose kết hợp với axit ellagic hay axit gallic.
Phân tử các tanin đó thường biểu thị chung là C76H52O46. Thủy phân axit sẽ cho axit gallic.
Ngoài tanin ra, trong ngũ bội tử còn có axit gallic tự do, 2 – 4% chất béo, nhựa và tinh bột. Khi chất tanin của ngũ bội tử tác dụng lên sắt (III) clorua sẽ cho màu lam đen, nếu dùng thuốc thử Braemer (dung dịch natri tungstat và natri axetat 1g trong 10ml nước) sẽ có màu vàng nâu hay màu vàng.
Cây muối – Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – Tập I – Đỗ Huy Bích cùng các tác giả khác (đã sửa chính tả):
Ngũ bội tử chứa gallotannin 60 – 77%, thành phần phức tạp, trong lượng phân tử là 1434. Thành phần chủ yếu là pentagalloylglucose hay 1,2,3,4,6-penta-O-galloyl-β-D-glucose (Trung dược Từ Hải I, 1993).
Hạt chứa tanin 50 – 70%, có khi 80%, thành phần chủ yếu là penta-m-galloyl-β-glucose. Ngoài ra còn có acid gallic 2 – 4%, lipid, nhựa, tinh bột, acid hữu cơ, acid tartaric, acid citric, flavonoid (Trung dược Từ Hải II, 1996).
Rễ có flavone, phenol, acid hữu cơ, tanin, dầu béo. Nhiều chất đã được phân lập từ rễ là acid gallic; 7-hydroxy-6-methoxycoumarin; scopoletin; methyl gallate; 3,7,4′-trihydroxyflavone; 3,7,3,4′-tetrahydroxyflavone; fisetin; quercetin (Trung dược Từ Hải II, 1996).
Từ lá, Parveen Nazneen và cs, 1988 đã chiết tách được 4 flavone và ethyl gallate (CA 110: 44.792d). Từ cây muối, người ta còn chiết tách được β-sitosterol, 3-heptadecylcatechol (CA 121: 153.321x).
Cây muối còn có acid semialatic (acid 3α-hydroxy-3β,19-epoxydammara-20,24E-dien-26-oic) (CA 115: 110.658w).
Các acid moronic, betulinic, 6-pentadecylsalicylic là những chất có tác dụng sinh học.
3. Tác dụng dược lý
Cây muối – Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – Tập I – Đỗ Huy Bích cùng các tác giả khác (đã sửa chính tả):
Cây muối có tác dụng chống siêu vi khuẩn bệnh herpes (HSV), và làm tăng tác dụng chống HSV của acyclovir in vitro và in vivo. Trên chuột lang gây nhiễm HSV típ 2 (HSV-2) hồi quy ở âm đạo, cây muối cho uống để dự phòng với liều tương đương liều cho người, làm giảm tỷ lệ nhiễm, mức độ nặng và tần số của thương tổn da tự phát và nặng so với chuột lang gây nhiễm uống nước. Khi gây nhiễm HSV-2 hồi quy bằng chiếu tia tử ngoại, ba tháng sau khi gây nhiễm lần đầu, cây muối cũng có tác dụng dự phòng, làm giảm mức độ nặng của các thương tổn da do tia tử ngoại. Như vậy điều trị dự phòng nhiễm HSV-2 đường sinh dục hồi quy có thể hỗ trợ tác dụng của acyclovir do giảm sử dụng acyclovir và giảm xuất hiện virus kháng acyclovir. Cao cây muối có tác dụng điều trị chống HSV-1. Khi kết hợp với acyclovir, tác dụng trên chuột nhắt trắng mạnh hơn so với dùng mỗi thuốc riêng lẻ.
Hai hợp chất chống HSV chủ yếu của cây muối là acid moronic va acid betulinic. Khi cho chuột nhắt trắng gây nhiễm HSV-1 dưới da uống acid moronic ngày 3 lần, chất này làm chậm phát triển thương tổn da và/hoặc kéo dài thời gian sống sót trung bình của chuột gây nhiễm mà không gây độc so với chuột đối chứng. Ngoài ra, acid moronic chặn sự tăng sinh của virus ở não mạnh hơn ở da. Cao chiết nước nóng cây muối ức chế sự nhân đôi của virus cư bào người và chuột in vitro. Cao methanol cây muối ức chế mạnh in vitro Clostridium perfringens trong điều kiện yếm khí.
Từ ngũ bội tử đã phân lập methyl gallate (MG) và acid gallic (AG) có tác dụng ức chế các vi khuẩn Bacteroides fragilis, Clostridium perfringens, Clostridium paraputrificum, Escherichia coli, Eubacterium limosum và Staphylococcus aureus. MG ức chế yếu các chủng Bifidobacterium animalis, B. bifidum, B. breve, B. infantis, B. thermophilum, Lactobacillus acidophilus, L. plantarum và Streptococcus faecalis.
Trong cao chiết với n-hexan thân cây muối, hoạt chất acid 6-pentadecylsalicylic có hoạt tính kháng thrombin và kéo dài thời gian đông máu phụ thuộc vào liều trong thử nghiệm tương tác thrombin – fibrinogen. Cao ức chế cyclooxygenase và lipoxygenase là enzym quan trọng tham gia vào quá trình kết tập tiểu cầu, do đó có thể có tác dụng điều trị huyết khối và xơ cứng động mạch. Phân đoạn tan trong ether của cao có tác dụng trên chuyển hóa acid arachidonic ở tiểu cầu thỏ.
Trong nghiên cứu về tác dụng trên bệnh thận do immunoglobulin A, bằng thử nghiệm tác dụng trên tăng sinh tế bào màng nâng cuộn mao mạch người, cao methanol thô cây muối ức chế sự tăng sinh tế bào người được hoạt hóa bởi interleukin-1 beta (IL-1β) và IL-6, và làm giảm sản sinh IL-1β và yếu tố hoại tử u – α (TNF-α). Ngoài ra, cao còn ức chế sự biểu hiện của IL-1β mRNA. Toàn cây muối, chiết với cồn ethylic 50o, có tác dụng hạ đường máu trên chuột cống trắng gây đái tháo đường thực nghiệm. Cao ngũ bội tử và thành phần chính acid gallic, cho uống hoặc tiêm phúc mạc cho chuột cống trắng được gây viêm gan bằng carbon tetraclorid, có tác dụng dự phòng sự tiến triển tổn thương gan cấp tính. Cơ chế dự phòng có thể chủ yếu do tác dụng bảo vệ của những chất này trên màng tế bào hơn là hoạt tính thu dọn gốc oxy.
Công dụng của ngũ bội tử
Ngũ bội tử có vị chát, hơi chua, tính bình, vào ba kinh: phế, thận, đại trường, có tác dụng liễm phế, cầm máu, làm săn.
Lá và rễ cây muối có vị mặn, tính mát, có tác dụng hạ sốt, cầm máu. Ngũ bội tử được dùng chữa ho, tiêu chảy, lỵ mạn tính, lỵ ra máu, vàng da, nôn ra máu, chảy máu cam, ra nhiều mồ hôi, ngộ độc. Dùng ngoài, trị mụn nhọt, lở loét. Ngày 2 – 5g dạng thuốc sắc. Ngâm dung dịch 5 – 10% để điều trị các vết loét trong miệng. Lá và rễ cây muối (40g) sắc uống chữa cảm sốt, ho ra máu, sởi. Lá sắc uống thay chè để giải nhiệt, dự phòng cảm nắng, chữa bị thương, kết hợp đắp ngoài.
Ở một số nước Đông Nam Á, ngũ bội tử được dùng uống làm thuốc làm săn, trị chảy máu, tiêu chảy, lỵ và ho đờm, đắp ngoài trị mụn nhọt, lở loét. Đôi khi quả cây muối dược dùng trị tiêu chảy. Ở Trung Quốc, ngũ bội tử uống là thuốc bổ, giải độc, hạ nhiệt, dịu cơn khát và cầm máu. Còn dùng trị di tinh, chảy máu nhiều, bệnh giun, đau răng. Dịch ép lá muối uống trị rắn độc cắn; bôi đắp tại chỗ trị chấn thương do mọi nguyên nhân, bệnh ngoài da mạn tính, bỏng, và súc miệng trị bệnh răng miệng. Ngày 0,5 – 2 g, dùng tại chỗ dạng thuốc sắc. Ở Ấn Độ, ngũ bội tử được dùng làm thuốc uống làm săn và long đờm, và bôi ngoài trị trĩ, sưng tấy và vết thương. Quả hãm uống trị đau bụng, lỵ, tiêu chảy.
Bài thuốc có ngũ bội tử:
Chữa trẻ em đái dầm: Ngũ bội tử giã nhỏ, thêm nước cho dính, đắp vào rốn.
Chữa đau bụng đi lỏng: Ngũ bội tử tán bột, làm viên bằng hạt đậu xanh, ngày 15 – 20 viên uống với nước pha bạc hà.
Chữa trẻ con bị trớ: Ngũ bội tử 3g, một nửa để sống, một nửa nướng chín, trích cam thảo 20g. Tất cả tán nhỏ, mỗi lần dùng 2g chiêu với nước cơm hay nước cháo.
Chữa trẻ em bị loét miệng: Ngũ bội tử mài với nước, bôi.
Địa chỉ bán cây giống cây muối tại Hà Nội uy tín ?
Địa chỉ: Ngách 68/45, ngõ 68, đường Nguyễn Văn Linh, phường Long Biên, thành phố Hà Nội.
- Quý khách xin vui lòng liên hệ với Cây cảnh Hải Đăng để được các chuyên viên của chúng tôi tư vấn lựa chọn sản phẩm bầu giống cây muối phù hợp.
- Chúng tôi sẽ chụp ảnh sản phẩm cho quý khách nếu có yêu cầu.
- Chúng tôi sẽ kiểm tra kỹ hàng hóa đảm bảo chất lượng và đúng quy cách trước khi giao.
- Quý khách ở xa vui lòng tiến hành chuyển khoản trước hoặc đặt cọc trước. Nếu quý khách ở nội thành có thể áp dụng ship nhanh với chi phí 50k một lần ship.








