Độ hoàn thiện nội dung: 80%.
Sau sau hay sau trắng, sâu trắng, phong hương, bạch giao, bạch giao hương, cây thau, trao, chao, cổ yếm, sâu cước, chà phai, tên tiếng Anh là formosan gum, Chinese sweet gum, Formosa sweet gum (danh pháp khoa học là Liquidambar formosana Hance) là một loài thực vật có hoa thuộc họ Sau sau Altingiaceae.





Mô tả cây sau sau
Cây sau sau – Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – Tập II – Đỗ Huy Bích cùng các tác giả khác (đã sửa chính tả):
Cây to, cao 20 mét hay hơn. Thân to, mọc đứng, cành non có lông rậm, sau nhẵn. Lá mọc so le, dài 13cm, rộng 19cm, chia 3 thùy nông hình chân vịt, gốc tròn hoặc hơi hình tim, đầu thuôn nhọn, mép khía răng đều; lá non màu hồng phủ nhiều lông hình sao; cuống lá dài 5 – 8cm, lá kèm hình dải sớm rụng; lá rụng vào mùa đông và mọc lại sau khi cây ra hoa.
Hoa đơn tính cùng gốc, mọc ở gần đầu cành; cụm hoa đực dài 4 – 5cm gồm những hoa trần có 1 nhị hợp với lá bắc thành đầu, các đầu tụ họp thành bông dài màu đỏ, cụm hoa cái dài 2 – 4cm, hình cầu gồm nhiều hoa không có tràng, bầu hạ, 2 ô. Quả kép hình cầu do nhiều quả nang hợp lại, đường kính 2 – 3cm, mang lá dài và lá bắc khô xác, cuống dài 3 – 9cm; hạt hình bầu dục, có cánh. Mùa hoa quả: tháng 5 – 7.
Thông tin thêm
1. Phân bố và thu hái sau sau
Cây sau sau – Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – Tập II – Đỗ Huy Bích cùng các tác giả khác (đã sửa chính tả):
Liquidambar L. là một chi nhỏ, gồm các loài là cây gỗ, rụng lá và đều có nhựa thơm. Chúng phân bố rải rác ở vùng cận nhiệt đới hay nhiệt đới tây và đông Á, cũng như ở bắc và trung Mỹ. Ở Việt Nam, có 2 loài sau sau và bạch giao. Sau sau là cây bản địa của vùng Trung, Nam – Trung Quốc và Đông Bắc Việt Nam, cây còn có ở Lào. Ở Việt Nam, sau sau tập trung nhiều ở vùng núi thấp và trung du, thuộc tỉnh Quảng Ninh, Lạng Sơn, Cao Bằng, Thái Nguyên, Bắc Giang, Bắc Kạn, Tuyên Quang, Hà Tây và Hòa Bình, không thấy có ở các tỉnh phía nam. Sau sau thuộc loại cây gỗ tiên phong trên đất sau nương rẫy hoặc bị cháy rừng. Khi còn nhỏ, cây hơi chịu bóng, sau đặc biệt ưa sáng. Cây thường mọc ở ven rừng, rừng thứ sinh, đồi và quanh bờ nương rẫy. Độ cao phân bố thường dưới 400 m; rụng lá mùa đông.
Sau sau sống được trên mọi loại đất, có khả năng chịu hạn tốt, nên sinh trưởng và phát triển được trên những loại đất khô cằn trơ sỏi đá. Cây mọc từ hạt sau 7 – 10 năm bắt đầu có hoa, tái sinh cây chồi sau khi chặt.
Phần lõi gỗ sau sau khá cứng, thường được sử dụng để làm cột nhà hoặc đóng đồ dùng. Chất nhựa tiết ra từ vỏ thân có mùi thơm, được dùng làm thuốc và chế tạo nước hoa. Với đặc điểm là cây mọc nhanh và ưa sáng, sau sau được trồng làm cây tạo bóng trước khi trồng lim (Erythrophleum fordii Oliv.). Sau 10 – 15 năm, khi cây lim vượt tán, sau sau dần dần bị đào thải.
Quả (lô lô thông), lá (phong hương diệp), rễ (phong hương căn), nhựa (phong hương chi). Lá, rễ, nhựa thu hái quanh năm.
2. Thành phần hóa học
Cây sau sau – Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – Tập II – Đỗ Huy Bích cùng các tác giả khác (đã sửa chính tả):
Lá sau sau chứa nhiều tanin. Các tanin thay đổi theo mùa như tellimagrandin II là thành phần chủ yếu vào đầu mùa xuân, trong khi đó casuarinin và pedunculagin là tanin chính vào mùa thu.
Các tanin thủy phân được như tellimagrandin I; casuariin; 1,2,4,6-tetra-O-galoyl-β-D-glucose.
Casuarietin chiết được từ lá vào tháng 12 và tháng 1, 2, 6; còn tri-O-galoyl-β-D-glucose chiết được vào tháng 5 (Hanato Tsutomu; Kira Reiko; CA. 106, 1987, 84560q).
Chất ellagitannin có tên là liquidambin, với cấu trúc liên quan đến casuarinin và pedunculagin được Okuda Takuo, Hatano Tsutanu chiết từ lá sau sau, có cấu trúc là 5-O-galloyl-2,3,4,6-di-O-(S)-hexahydroxy-diphenyl-D-glucose (CA. 107, 1987, 172446u).
Các chất tanin C-glucosidic và oligomeric như isorugosin A; isorugosin B và isorugosin D; isorugosin E, isorugosin G, rugosin E và rugosin G cũng đã được phân lập và xác định cấu trúc (CA. 111, 1989, 93878r; CA. 120, 1994, 73353y).
Chất hertellin B là một tanin thủy phân được, cấu trúc dumeric, có tác dụng ức chế khối u (CA. 115, 1991, 89133j).
Quả sau sau chứa acid liquidambaric là một acid triterpenic và 24-ethyl-Δ3-cholesten-3β-ol (Sun Yuru; Sun You Lu: CA. 110, 1989, 42120e).
Hai chất triterpene loại olean được chiết từ quả, có cấu trúc là: 2α,3β-dihydroxy-23-nor-olean-4(24)-12(13)-dien-28-oic và 2α,33,23-trihydroxy-olean-12(13)-en-oic acid (Lai Zuoqi; Dong Yong; CA. 126, 1997, 297528w).
Ngoài ra, còn có acid liquidambaric lacton (Sun yuru; Sun You Lu; CA. 126, 1997, 44939n).
Quả sau sau còn chứa acid beturonic có hoạt tính sinh học bảo vệ gan.
Vỏ cây sau sau chứa các chất iridoid là monotropein, monotropein methyl ester; 6α-hydroxygeniposide và 6β-hydroxygeniposide (Jiang Zhihong; Zou Ronghan; CA. 124, 1996, 25616x).
Ngoài ra trong nhánh cây có digalloylhamamelose có tác dụng ức chế tế bào ung thư. Tinh dầu từ nhựa sau sau chúa α-pinene; β-pinene; camphene; terpinolene; caryophyllene và bornyl acetate. Phần không bay hơi của nhựa sau sau chứa cinnamyl cinnamate; 28-hydroxy-β-amyrone acid oneanolic và acid liquidambronic (Liu Hoang; Shen Meiying; CA. 124, 1996, 50677a).
Ngoài ra, còn bornyl trans-cinnamate, hai chất pentacyclic triterpene aldehyde là liquidambronal và ambronal, acid ambrolic và acid ambradidic (Liu Chi … CA. 116, 1992, 148184x; Trung dược Từ Hải II, 612 – 613).
3. Tác dụng dược lý
Cây sau sau – Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – Tập II – Đỗ Huy Bích cùng các tác giả khác (đã sửa chính tả):
Trong thử nghiệm in vitro, sau sau có hoạt tính ức chế các chủng vi khuẩn như: Tụ cầu vàng, Bacillus anthracis, Klebsiella pneumoniae, trực khuẩn mủ xanh, Escherichia coli và Streptococcus faecalis. Thành phần acid beturonic trong quả sau sau được chứng minh có hoạt tính bảo vệ rõ rệt chống lại tác dụng độc hại gây bởi chất hóa học trên tế bào gan nuôi cấy của chuột cống trắng.
Digalloylhamamelose chiết từ nhánh cây sau sau được chứng minh có tác dụng ức chế sự kết dính và xâm nhập của tế bào carcinoma LL2 – Lu3 phổi chuột nhắt trắng, những tế bào này có khả năng di căn cao.
Công dụng và liều dùng cây sau sau
Quả sau sau có vị đắng, tính bình, mùi thơm, có tác dụng khử phong, hoạt lạc, lợi thủy, thông kinh. Lá có vị đắng, tính bình, có tác dụng thanh nhiệt giải độc, thu liễm, chỉ huyết. Nhựa có vị ngọt, cay, tính ấm, có tác dụng thông khiếu, khai uất, khử đờm, và cũng có tác dụng hoạt huyết giảm đau, chỉ huyết sinh cơ. Rễ có vị đắng, tính ấm, có tác dụng khử thấp, chỉ thống.
Quả sau sau được dùng chữa phong thấp, đau nhức khớp xương, tâm vị trướng đau, thủy thũng, đái khó, kinh nguyệt không đều, thiếu sữa, mày đay, viêm da, chàm. Lá chữa viêm ruột, lỵ, đau vùng thượng vị, thổ huyết, chảy máu cam; dùng ngoài trị mẩn ngứa, eczema. Nhựa trị ho có đờm, kinh gián, thổ huyết, nôn ra máu, khạc ra máu, chảy máu cam; dùng ngoài bôi chữa vết thương chảy máu, đòn ngã tổn thương. Nhựa còn được dùng uống để trị mụn nhọt và đau răng. Rễ chữa thấp khớp và đau răng. Liều dùng mỗi ngày: quả và rễ 3 – 10g, lá 15 – 30g, dạng thuốc sắc. Nhựa được dùng với liều 1,5 – 3g, giã thành bột và chiêu với nước.
Trong y học cổ truyền và dân gian Trung Quốc, sau sau được dùng làm thuốc giảm đau và sát trùng. Dùng uống trị viêm ruột và lỵ trực khuẩn, phối hợp với các vị khác làm thuốc long đờm trong điều trị lao. Dùng ngoài làm thuốc sát trùng trị bệnh mủ da, ghẻ và bệnh nấm tóc. Cách dùng: dùng rễ cây sau sau uống dưới dạng thuốc sắc hoặc bột. Liều mỗi lần 0,5 – 2g hoặc dùng ngoài thuốc bôi dẻo từ nhựa cây 10 – 50%. Quả sau sau được dùng ở Đài Loan làm thuốc bảo vệ gan. Ở Ấn Độ, nhựa thơm sau sau được dùng làm thuốc long đờm và sát trùng, và làm thuốc bôi dẻo trị ghẻ và những bệnh ký sinh trùng ngoài da khác. Hiện nay, ít được dùng trong y học.
Bài thuốc có sau sau:
Chữa đau răng, sâu răng: Nhựa sau sau đốt cháy, lán nhỏ, xỉa răng.
Chữa lở ngứa, mày đay, nổi mẩn: Lá hay vỏ cây sau sau nấu nước, tắm rửa.
Chữa thấp khớp, lưng gối đau, tay chân co quắp, toàn thân té đau: Quả sau sau, hoa thông hoặc lõi thông (tùng tiết), mỗi vị 20g, sắc uống. Phụ nữ có thai không được dùng.
Chữa mụn nhọt, sưng lở, bị thương đau nhức hay chảy máu, phong thấp sưng đau: Nhựa sau sau, nhựa thông, mỗi vị 40g, sáp ong, dầu vừng, mỗi vị 10g. Đun và đánh đều cho loãng ra, để nguội phết lên giấy, dán vào chỗ đau.
Sau sau thổi xôi đen
Cây sau sau là một loài cây rừng đặc trưng của vùng núi phía Bắc Việt Nam, lá của cây ngoài công dụng chữa bệnh còn dùng để nấu món xôi đen, món đặc sản của các dân tộc như Tày, Nùng, Sán Dìu.

Xôi đen từ lá sau sau có màu đen bóng, mùi thơm dịu nhẹ và vị dẻo ngon đặc trưng. Lá sau sau được giã nhỏ, ngâm nước để lấy nhựa, sau đó dùng nước này để ngâm gạo nếp (thường là nếp cái hoa vàng) trong khoảng 10 – 12 tiếng. Khi đồ lên, xôi có màu đen thẫm và hương vị rất lạ miệng.
Địa chỉ bán cây giống sau sau tại Hà Nội uy tín ?
Địa chỉ: Ngách 68/45, ngõ 68, đường Nguyễn Văn Linh, phường Long Biên, thành phố Hà Nội.
- Quý khách xin vui lòng liên hệ với Cây cảnh Hải Đăng để được các chuyên viên của chúng tôi tư vấn lựa chọn sản phẩm cây sau sau phù hợp.
- Chúng tôi sẽ chụp ảnh sản phẩm cho quý khách nếu có yêu cầu.
- Chúng tôi sẽ kiểm tra kỹ hàng hóa đảm bảo chất lượng và đúng quy cách trước khi giao.
- Quý khách ở xa vui lòng tiến hành chuyển khoản trước hoặc đặt cọc trước. Nếu quý khách ở nội thành có thể áp dụng ship nhanh với chi phí 50k một lần ship.
Tài liệu tham khảo
- Liquidambar formosana – Wikipedia tiếng Anh.
- Sau sau – Wikiepdia tiếng Việt.
- Cây sau sau – Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – Tập II – Đỗ Huy Bích cùng các tác giả khác.
- Cách làm xôi đen từ lá sau sau, đặc sản độc đáo miền núi phía Bắc – her.vn








