Độ hoàn thiện nội dung: 70%.
Qua lâu hay bạc bát, dưa trời, tên tiếng Anh là Chinese cucumber, Chinese snake gourd (danh pháp khoa học là Trichosanthes kirilowii Maxim.), là một loài thực vật có hoa thuộc họ bầu bí Cucurbitaceae.


Mô tả cây qua lâu
Cây qua lâu – Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – Tập II – Đỗ Huy Bích cùng các tác giả khác (đã sửa chính tả):
Dây leo, dài 3 – 10m. Rễ củ thuôn dài như củ sắn, thắt khúc. Thân có rãnh và những chấm trắng (bì khổng). Lá mọc so le, dày và dai, đường kính 10 – 12cm, gốc hình tim, đầu hơi nhọn, xẻ thành 5 thuỳ nông; mỗi thùy có 5 răng cưa không đều, hai mặt nhẵn, mặt trên thường điểm những vết trắng; cuống lá dài 3 – 4cm; tua cuốn mọc đối xứng với lá, chia 3 – 5 nhánh.
Hoa đơn tính, màu trắng, đầu cánh hoa có nhiều sợi dang mi dài; cụm hoa đực dài 10 – 15cm; đài hình ống loe ở đầu, 5 răng có lông nhỏ, cánh hoa có lông; nhị hợp thành đầu, chỉ nhị 3; hoa cái mọc đơn độc, đài và tràng giống hoa đực, nhưng hơi tiêu giảm, bầu hình trứng, có lông mịn. Quả hình cầu hoặc hình trứng, màu lục có sọc trắng, khi chín màu đỏ; hạt nhiều, hình trứng dẹt, màu nâu nhạt. Mùa hoa: tháng 3 – 6; mùa quả: tháng 7 – 10.
Thông tin thêm
1. Phân bố và sinh thái
Cây qua lâu – Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – Tập II – Đỗ Huy Bích cùng các tác giả khác (đã sửa chính tả):
Chi Trichosanthes L. gồm khoảng 40 loài, phân bố rải rác ở vùng nhiệt đới, cận nhiệt đới. Từ Sri Lanka, Ấn Độ, Pakistan, Myanmar, Trung Quốc đến các nước ở bán đảo Đông Dương, Thái Lan, Malaysia, vùng Bắc và Đông Australia, quần đảo Fiji ở Thái Bình Dương. Ở Malaysia có 15 loài, Việt Nam 12 loài. Loài qua lâu phân bố chủ yếu ở vùng Đông Á, bao gồm Triều Tiên, Trung Quốc, Nhật Bản, Việt Nam và Lào. Ở Việt Nam, các loài có tên là qua lâu thường thấy ở một số tỉnh giáp biên giới phía bắc, như Quảng Ninh, Cao Bằng, Lạng Sơn, Yên Bái, Tuyên Quang, Sơn La, Hòa Bình. Có tài liệu cho rằng, nó còn phân bố đến tận Ninh Thuận (Võ Văn Chi, 1997).
Qua lâu là cây ưa ẩm, ưa sáng và có thể chịu hóng, thường leo trùm lên những cây bụi và dây leo khác ở vùng rừng núi đá vôi ẩm. Đôi khi thấy cả ở ven rừng kín thường xanh hoặc bờ các nương rẫy giáp núi đá vôi. Độ cao phân bố từ 300m (Thái Nguyên) đến 1300m (Hà Giang). Cây thường mọc trên đất ẩm, nhiều mùn và tơi xốp. Ở vùng rừng núi đá vôi, có thể gặp những cây qua lâu mọc từ trong các hốc đá. Cây thích nghi với những vùng có nhiệt độ trung bình năm từ 18 đến 22oC, độ ẩm không khí trung bình 80 – 85% và có mùa đông lạnh kéo dài 3 – 4 tháng. Cây ra hoa quả hàng năm, nhưng mức độ sai quả tùy theo từng năm. Khi chín, chim thường ăn phần thịt quả; cây con mọc từ hạt là phương thức tái sinh tự nhiên chủ yếu. Hiện nay chưa xác định được vòng đời của qua lâu, song dự đoán cây có thể sống 3 – 4 năm.


2. Bộ phận dùng
Cây qua lâu – Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – Tập II – Đỗ Huy Bích cùng các tác giả khác (đã sửa chính tả):
Hạt tên thuốc là qua lâu nhân, vỏ quả là qua lâu bì, rễ củ là thiên hoa phấn hay qua lâu can. Quả thu hái vào tháng 9 – 10 lấy vỏ quả và hạt phơi khô. Rễ củ thu hái vào mùa đông. Đào về rửa sạch, gọt vỏ ngoài. Cát thành từng đoạn, bổ dọc phơi khô. Nếu trồng để lấy thiên hoa phấn thì khi cây ra hoa, người ta ngắt bò hết hoa không cho cây kết quả, do đó rễ sẽ mập hơn.
Trong y học cổ truyền, qua lâu được chế biến như sau:
– Qua lâu thái sợi: Lấy quả, bỏ bạt, dùng vải ẩm lau sạch bụi bẩn (không rửa nước), thái sợi dài 5 – 7cm rộng 2 – 3mm phơi nắng hay phơi âm can cho khô.
– Qua lâu chưng: Quả bỏ hạt, bỏ cuống, chưng 1 – 2 giờ cho mềm, ép dẹp, thái thành sợi, phơi khô.
– Qua lâu chích mật: Qua lâu (10kg), mật ong (2kg). Trước tiên trộn mật ong với qua lâu sợi, để 30 phút cho ngấm đều, rồi sao nhỏ lửa cho đều khi không dính tay.
– Qua lâu sao vàng: Qua lâu sợi sao nhỏ lửa đến khi có màu vàng sẫm và các chấm màu nâu cánh gián.
– Qua lâu nhân sao thơm: Sao qua lâu nhân đến màu vàng, và khi có mùi thơm, cho thêm đồng lượng thiên hoa phấn vào cùng sao để giữ chất dầu của dược liệu.
– Qua lâu nhân sao cháy: Cho qua lâu nhân vào nồi đã rang nóng già sao đến khi bề mặt có màu đen nhánh.
– Qua lâu nhân sao cám: Qua lâu nhân (10kg), cám gạo (0,5kg), trộn đều cám và qua lâu nhân, sao nhỏ lửa đến khi có màu vàng.
– Qua lâu nhân chích mật ong: Qua lầu nhân (10kg), mật ong (0,3kg), nước (1 lít). Hòa mật ong với nước, cho qua lâu nhân trộn đều rồi cho vào nồi đã đun nóng già. Sao đến khi sờ không dính tay. Có thể sao qua lâu nhân cho phồng lên rồi vẩy mật ong vào và sao tiếp đến khi sờ không dính tay là được.
– Qua lầu sương: Tán qua lâu nhân thành bột mịn, gói bội vào giấy bản hay vải gạc; ép nóng bằng cách rang bột ở nhiệt độ 100 – 105oC, hoặc đổ cho bột chín rồi ép 1 lần cho hết dầu. Đem phơi hoặc sấy bột, được qua lâu sương.

2. Thành phần hoá học
Cây qua lâu – Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – Tập II – Đỗ Huy Bích cùng các tác giả khác (đã sửa chính tả):
Hạt qua lâu chứa các hợp chất sau:
– Các chất triterpenoid:
Năm hợp chất triterpene với bô khung D:C-friedo-olean là:
(1) D:C-friedo-oleana-7-9(11)-dien-3β-29-diol (3-epi-karounidol).
(2) 7-oxo-D:C-friedo-olean-8-en-3β-ol (7-oxо-isomultiflorenol).
(3) 7-oxo-8β-D:C-friedo-olean-9(11)-en-3α-29-diol.
(4) D:C-friedo-olean-8-en-3α-29β-diol (3-epi-brionolol).
(5) D:C-friedo-olean-8-en-3β-29-diol (brionolol).
Các chất trên có tác dụng chống viêm (Akihisa, Toshihiro, Yashukawa, Ken … CA. 121, 1994, 99143a).
Các tác giả còn tách được chất triterpene khác là 7-oxo-10α-cucurbitadienol và chứng minh tác dụng chống viêm của nó (Phytochemistry 1994, 36(1):153 – 7).
Chất 5-dehydrokarounidiol (D:C-friedo-olean-5,7,9(11)-trien-3α -29-diol) cũng đã được phân lập từ hạt qua lâu (CA.119, 1993, 91167v).
Ngoài ra còn 7-oxo-D:C-friedo-olean- 8en-3α-29-diol và acid bryonolic (CA. 117, 1992, 108185n).
Gần dây, Kimura, Yumiko, Akilusa Toshihiro đã phân lập từ hạt qua lâu hai triterpene alcol mới thuộc loại cycloartane mà trong phân tử có vòng monohydroxy tetrahydrofuran ở chuỗi bên. Đó là chất cyclokirilodiol và isocyclokirilododiol. Hai chất này được tách từ phần lipid không xà phòng hóa và cấu trúc của chúng được xúc định là (22S,24S)-22,25-epoxy-24-hydroxy-5α-cycloartane-3β-ol và (22R,245)-22,25-epoxy-24-hydroxy-5α-cycloartane-3β-ol (CA. 126, 1997, 2488311).
– Các hợp chất protein:
Pierre Casellas, Daniell Dussossoy cùng cộng sự đã tách từ hạt qua lâu bằng phương pháp tinh chế trên cột trao đổi ion và lọc gel một protein đặt tên là trichokirin. Đó là một glycoprotein có trọng lượng phân tử 27.000 có tính chất làm ức chế hoạt hóa ribosome được dùng để chế tạo các thuốc immunotoxin (CA. 110, 1989, 381q).
Flasca, Ama Ida và cộng sự đã tinh chế và xác định một chất protein khác cũng là một glycoprotein mà cấu trúc gồm 2 phần với trọng lượng phân tử là 37 và 35 KDa (CA. 110, 1989, 188049g).
Một chất protein có hoạt tính ức chế hoạt động của ribosome đồng thời gây sảy thai mạnh là β-kinilowin được Dong T.K – Ng T B phân lập và xác định cấu trúc. Sau đó các tác giả còn tách được α-kinlowin cũng là một protein ức chế hoạt hóa ribosome (RIP) với trọng lượng phân tử khoảng 28.800 Da lớn hơn một ít so với β-kinlowin (CA. 120, 1994, 294154m; CA. 121, 1996, 141079y).
Một protein có tác dụng ức chế sự phát triển của virus HIV được Lee Hoang Syhsia và cộng sự tách từ hạt qua lâu là TAP-29. Chất này khác với chất protein trichosanthin cũng chiết từ qua lâu, TAP-29 có trọng lượng phân tử là 29 KDn, còn trichosanthin (GLQ:233) có trọng lượng là 26 KDa. Trichosanthin có tác dụng gây sảy thai và điều trị HIV (CA. 115, 1991, 149807u; CA. 114, 1991, 69043f; CA. 118, 1993, 116726a).
Sun. Jian Zhong; Wang Keyi đã chiết được một isolectin, trong đó TKL-1 có 2 chuỗi nhánh có cấu trúc tương tự như chuỗi của ricin A và B (CA. 124, 1996, 25612t; CA. 123, 1995, 334050).
– Các sterol:
Kimura, Yumiko và cộng sự đã xác định cấu trúc các sterol hydroxy hoá có trong hạt qua lâu như stigmastane-3β-6α-diol; poriferastan-3β-6α-diol; stigmast-5-en-3β-4β-diol; poriferast-5-en-3β-4β-diol và poriferasta-5-25-dien-3β-4β-diol (CA. 124, 1996, 25633a).
– Các acid béo:
Trong hạt qua lâu có các triacetylglycerol chứa các picolinyl ester 38,2 mol% và acid punicic 38,0 mol% (CA. 123, 1995, 222818v).
Rễ qua lâu có những thành phần sau:
– Các protein:
Karasurin B và karasurin C là các protein có hoạt tính ức chế hoạt động của ribosome. Karasurin A gồm 247 đơn vị acid amin với trọng lượng phân tử khoảng 27214 Da còn karasurin C gồm 249 đơn vị acid (amin amino acid residues) với trọng lượng phân tử là 27041 Da. Các chuỗi acid amin của 2 chất này hoàn giống như của karasurin A là một protein cơ bản chiết được từ rễ qua lâu (Kondo. Toshiya, Mizukami Hajime – CA. 126, 1997, 56500a).
Chất trichosanthin (27 KDa) có trong rễ qua lâu với hàm lượng > 1% và TAP-29 là ~ 0,01%.
Cả hai chất trên được thông báo là có tác dụng chống u và chống virus kể cả HIV (Thorup John E. CA. 126, 1991, 106584a).
Trichosanthin được phân lập và tinh chế từ rễ qua lâu bằng ly tâm dịch chiết ở nhiệt độ lạnh 0 – 5oC sau khi tủa với aceton ở pH = 4,5, sản phẩm tinh chế chứa > 80% protein (Tian Genguan, Sun Xiaokian. CA. 111, 1989, 83950u).
Một chất protein có tính làm sẩy thai là karasurin được phân lập từ rễ qua lâu tươi. Chất này có tính kiềm mạnh PI = 10,1 có trọng lượng phân tử 28000 (Toyokawa, Shunsuke và cs. CA. 115, 1991, 45060r).
– Một peptid: Có tính chất ức chế trypsin được phân lập và tinh chế từ rễ qua lâu. Chất này chứa 2 thành phần chính, cả hai đều có 27 đơn vị acid amin với 3 cặp dây nối disulfit. Sự khác nhau về sự sắp xếp ở vị trí số 9 là glutamine và lysine (Yuewei; Tan Fulong. СA. 114, 1991, 2568n).
– Một chất lectin: Được đặt tên là tianhuafen được tách riêng và tinh chế từ rễ qua lâu. Chất này có thể nối desialyl-α1 glycoprotein và với các đường galactose, fructose, arabinose, pectin, gôm và mucin (Sun. Jianzang; Wang keyi. CA. 119, 1993, 24629р).
– Một protein độc với tế bào (cytotoxic protein là trichosanthin ZG), được tách từ qua lâu có tác dụng ức chế tổng hợp protein trong tế bào chọn lọc và làm thuốc gây sẩy thai (Maraganore Jonh M. Kind svogel. CA. 110, 1989, 186793d).
– Các chất sterol acid hữu cơ và glucoside. Từ rễ tươi qua lâu, các chất sau đã được xác định là methyl palmitate, acid palmitic, acid suberic, acid bryonolic; α-stigmasterol; stigmast-7-en-3β-ol và 3-O-β-D-glucopyranoside của stigmast-7-en; α-spinasterol và α-spinasterol-3-O-β-glucopyranoside, cucurbitacin B; cucurbitacin D; vomifoliol, Et α-L-arabinofuranoside.
Chất đắng của qua lâu nhân được coi là do sự có mặt của cucurbitacin B và D (Kitajima. junichi; Tanaka yasellko. CA. 111, 1989, 21916a, 83950u).
Acid bryonolic cũng được chiết xuất với hàm lượng cao trong rễ (Knondo. Toshiya và công sự. CA. 123, 1995, 1322773).
Lá qua lâu chứa các flavonoid mà Yolusaki Mayao và cộng sự đã xác định là các chất 7,3′ và 4-glucoside của luteolin; 7-glucoside và 6,8-diglucoside của apigenin; luteolin 7, 3′ và 4′-glucoside; apigenin 7-glucoside (Phytochemistry 1987. 26(9):2557 – 8).
Một số tư liệu đã thông báo tách được các chất làm hạ đường huyết là các trichosan gồm các glycan A, B, C, F có trong qua lâu, trong đó trichosan A là glycan chủ yếu có tác dụng (Hikino, Hiroshi và cs. CA. 112, 1990, 30460y).
Một số chất polysaccharide gồm chủ yếu là glucose, galactose, fructose, manose, xylose và một lượng nhỏ protein có tác dụng rõ rệt chống u và độc với tế bào (Chung Yeoun Bong và cộng sự CA. 114, 1991, 199202t). Các polysaccharide cũng có tác dụng làm hạ đường huyết (CA. 124, 1996, 21562d).
Cùi quả qua lâu chứa các men như men protease gồm protease A và B, mỗi chất protease có trọng lượng phân tử ≥ 50.000 (Uchikoba Tetsuya và cộng sự. CA. 113, 1990, 73491x).
Vỏ quả chứa các sterol như Δ7 stigmasterol, β-spinasterol và Δ7 stigmasterol-β-D-glucopyranoside (Du Shangjian CA. 109, 1988, 208293z).


3. Tác dụng dược lý
Cây qua lâu – Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – Tập II – Đỗ Huy Bích cùng các tác giả khác (đã sửa chính tả):
Các protein trichosanthin và TAP-29 có hoạt tính kháng HIV cùng một kiểu, nhưng khác nhau về tính chất độc hại tế bào. Chỉ trichosanthin có tác dụng độc phụ thuộc vào liều trên tế bào chủ, và là chất ức chế mạnh sự tổng hợp protein.
Trong một nghiên cứu lâm sàng, đã tiêm bắp cao nước rễ qua lâu với liều 0,2mg/người cho 2500 phụ nữ mang thai để gây sẩy thai. Tỷ lệ sẩy là 96% ở giai đoạn mang thai cuối và 71% ở giai đoạn giữa. Tuy vậy, cần thận trọng vi có nguy cơ gây chết. Các chất có hoạt tính gây sẩy thai là trichosanthin, β-trichosanthin, α- và β- kirilowin. Phân đoạn polysaccharide của qua lâu có tác dụng kháng khối u độc hại tế bào và kích thích miễn dịch.
Trichosanthin có tính độc hại chọn lọc với tế bào ung thư rau và u melanin. Sự giảm tiết rõ rệt gonadotropin màng đệm và progesteron bởi các tế bào ung thư rau sau khi điều trị với các protein từ qua lâu có thể quy chủ yếu cho sự mất tế bào. Các bạch cầu đơn nhân to ở máu ngoại biên người và các đại thực bào có độ nhạy cảm cao với trichosanthin, thuốc chặn sự tăng sinh tế bào lympho. Các dòng tế bào T và đại thực bào người nhạy cảm hơn với trichosanthin so với các dòng tế bào B và tế bào tụy. Những phát hiện này cho thấy tính độc hại tế bào chọn lọc với đại thực bào và/hoặc bạch cầu đơn nhân to người có thể góp phần vào hoạt tính kháng HIV của trichosanthin, và cần đánh giá tác dụng diệt chọn lọc các tế bào bệnh bạch cầu – u bạch huyết của trichosanthin về khả năng áp dụng điều trị một số dạng bệnh bạch cầu và u bạch huyết.
Cao cổn 50o của toàn quả qua lâu có tác dụng chống viêm và giảm đau. Nước sắc rễ qua lâu có tác dụng chống tăng đường máu. Năm glycan, các trichosan A, B, C, D, F có tác dụng hạ đường máu ở chuột nhắt bình thường. Chất glycan chính, trichosan A, có tác dụng hạ đường máu ở cả chuột nhắt gây đái tháo đường với alloxan. Lectin gắn galactose từ rễ qua lâu làm tăng sự tạo steroid từ các tế bào tuyến thượng thận chuột cống trắng có lập gây bởi liều dưới mức tối đa corticotropin nhưng không có tác dụng trên sự tạo steroid gây bởi liều có tác dụng tối đa của corticotropin.
Cao chiết với nước nóng của rễ qua lâu có tác dụng ức chế yếu trên men aldose reductase của thể thuỷ tinh bò với tỷ lệ ức chế dưới 50%. Các glyceride trong hạt qua lâu có tác dụng chống huyết khối và bản thân acid trichosanoic là một chất ức chế kết tập tiểu cầu. Một glycoprotein kiềm, trichokirin, tương tự như trichosanthin, có tác dụng kháng HIV. Phối hợp với một kháng thể đơn dòng vô tính chống lại kháng nguyên Thy I-2, trichokirin giải phóng một kháng độc tố có khả năng diệt một cách chon lọc các tế bào bệnh bạch cầu của chuột có kháng nguyên Thy I-2.
Trên mô hình gây thoái hóa cơ tim thỏ do tiêm adrenaline-theophyline, một thuốc đông y gồm qua lâu (40%), hồng hoa (40%) và cam thảo (20%) được dùng điều trị cho thỏ thấy, so với thỏ đổi chứng, điện tâm đồ của thỏ được điều trị bằng thuốc nêu trên được cải thiện rõ rệt, hình ảnh thoái hóa cơ tim giảm đi đáng kể.


Công dụng và liều dùng qua lâu
Hạt qua lâu có vị ngọt đắng, tính mát, vào 2 kinh phế, vị, có tác dụng thanh nhiệt, hóa đàm, nhuận phế, hoạt trường. Rễ qua lâu có vị ngọt chua, tính mát, vào 2 kinh phế vị, có tác dụng thanh nhiệt giáng hỏa, sinh tân dịch, lợi sữa.
Hạt qua lâu được dùng trị táo bón, ho khan, thổ huyết, ung nhọt. Ngày dùng 12 – 16g, dạng thuốc sắc (sau khi ép bỏ hết dầu). Rễ qua lâu chữa nhiệt bệnh, tiêu khát, vàng da, đau vú, trĩ, lở ngứa, sưng tấy. Ngày dùng 13 – 20g dạng thuốc sắc. Vỏ quả chữa phế nhiệt sinh ho, thổ huyết, ra máu cam, chữa sốt nóng, thủy thũng, vàng da. Thường dùng với các vị thuốc khác chữa viêm họng, mất tiếng.
Trong y học Trung Quốc, rễ và vỏ qua lâu được dùng phối hợp với các dược liệu khác trị ho, ho gà, tác dụng chống co thắt và long đờm, và làm thuốc chống viêm. Hạt qua lâu điều trị bệnh phổi và làm thuốc lợi tiểu, lợi sữa, hạ sốt, trị táo bón, sát khuẩn, làm săn (trong tiêu chảy ra máu). Hạt sấy khô và tán nhỏ là một thành phần của thuốc bôi dẻo để trị một số bệnh da. Rễ tán bột dùng ngoài trị eczema. Nước hãm rễ được dùng rửa vết thương. Qua lâu được dùng điều trị một số loại u, đặc biệt trị ung thư phế quản và những chỉ định khác gồm: Đau ngực, đau thắt ngực đã được nghiên cứu.
Bài thuốc có qua lâu:
Chữa trẻ con bị vàng da: Rễ qua lâu 10g, giã nhỏ, cho thêm nước đun sôi để nguội, gạn lấy nước uống. Có thế thêm ít mật ong cho dễ uống.
Chữa người đen sạm: Rễ qua lâu 16g, cách dùng như trên. Uống luôn trong vài ngày.
Chữa viêm màng phổi do lao:
- Qua lâu nhân 8g; sài hồ, hạ khô thảo, huyền sâm, mỗi vị 16g; bán hạ chế, chỉ xác, tang bạch bì, mỗi vị 8g. Sắc uống ngày một thang.
- Toàn qua lâu, sài hồ, thanh hao, mỗi vị 20g, hoàng cầm, cát cánh, chỉ xác, mỗi vị 12g; bán hạ chế 8g. Sắc uống ngày một thang.
Chữa cơn đau vùng tim:
- Qua lâu nhân 20g; củ hẹ, nhân hạt đào, vỏ chanh già, mỗi vị 12g. Sắc uống trong ngày.
- Qua lâu 8g; đào nhân 16g; xuyên khung, sinh địa, đương quy, xích thược, sài hồ, hồng hoa, mỗi vị 12g; cát cánh, trần bì, củ hẹ, chỉ xác, mỗi vị 8g, cam thảo 6g. Sắc uống trong ngày.
Chữa xơ cứng động mạch vành hoặc thời kỳ ổn định sau nhồi máu cơ tim:
- Qua lâu 8g; vỏ trai 20g, thiên ma, câu đằng, thiên môn, hoàng tinh, địa long, sung uý tử, đan sâm, hồng hoa, mỗi vị 8g; bán hạ chế, củ hẹ, mỗi vị 6g. Sắc uống trong ngày.
- Qua lâu 8g; hà thủ ô 16g; trinh nữ tử, cỏ nhọ nồi, tang ký sinh, hoàng tinh, kê huyết đằng, tang thầm, mỗi vị 12g; rễ gai, thiên môn, củ hẹ, uất kim, hồng hoa, mỗi vị 8g. Sắc uống trong ngày.
Chữa đái tháo đường: Rễ qua lâu 8g, thuc địa, hoài sơn, mỗi vi 20g; đan bì, kỷ tử, thạch hộc, mỗi vị 12g; sơn thù du, sa sâm, mỗi vị 8g. Sắc uống ngày một thang.
Chữa sốt rét; thể rét nhiều sốt ít hoặc không sốt:
- Qua lâu, quế chi, gừng khô, thảo quả, xuyên tiêu, mỗi vị 8g; binh lang 6g. Sắc uống.
- Rễ qua lâu 8g, mẫu lệ 12g; sài hồ, quế chi, hoàng cầm, mỗi vị 8g; can khương, cam thảo, mỗi vị 6g. Sắc uống.
Chữa viêm tắc động mạch: Qua lâu nhân 16g; đương quy, cam thảo, mỗi vị 20g; kim ngân hoa, xích thược, ngưu tất, mỗi vị 16g; huyền sâm, đào nhân, đan bì, đan sâm, mỗi vị 12g; binh lang, chỉ xác, mỗi vị 8g. Sắc uống ngày một thang.
Chữa ho gà ở giai đoạn hồi phục: Rễ qua lâu 16g; sa sâm, mạch môn, mỗi vị 12g, từ uyển, bách bộ, mỗi vị 8g. Sắc uống trong ngày.
Chữa quai bị: Rễ qua lâu 8g; thạch cao 16g; ngưu bàng, cát căn, mỗi vị 12g; tháng ma, liên kiều, hoàng cầm, cát cánh, mỗi vị 8g; sài hồ, cam thảo, mỗi vị 4g. Sắc uống trong ngày.
Chữa phụ nữ đẻ sữa không xuống:
- Rễ qua lâu thiêu tồn tính, tán nhỏ. Ngày uống 16 – 20g.
- Rễ qua lâu 8g; bạch thược 12g; sài hồ, đương quy, xuyên sơn giáp, mỗi vị 8g; thanh bì, cát cánh, thông thảo, mỗi vị 6g. Sắc uống ngày một thang.
Chữa viêm tuyến vú: Qua lâu 12g; bồ công anh 40g; kim ngân hoa, liên kiều, mỗi vị 16g; hoàng cầm 12g; thanh bì, sài hồ, mỗi vị 8g. Sắc uống ngày một thang.
Chữa viêm họng mất tiếng: Vỏ quả qua lâu, bạch cương tàm, cam thảo, mỗi vị 10g; gừng tươi 1g. Sắc chia 2 lần uống trong ngày.
Chữa viêm họng mãn tính: Rễ qua lâu 12g; sa sâm 16g; mạch môn, hoàng cầm, tang bạch bì, mỗi vị 12g; cát cánh, cam thảo, mỗi vị 4g. Sắc uống ngày một thang. Nếu họng có nhiều hạt, thêm xạ can 8g; nếu họng khô thêm thạch hộc 16g, huyền sâm 12g; nếu đờm khó khạc thêm qua lâu 8g, bối mẫu 6g.
Chữa viêm amidan mãn tính:
- Rễ qua lâu 8g; sinh địa 16g; hoài sơn, huyền sâm, ngưu tất, mỗi vị 12g; sơn thù, trạch tả, đan bì, phục linh, tri mẫu, địa cốt bì, mỗi vị 8g; xạ can 6g. Sắc uống ngày một thang.
- Rễ qua lâu 8g; sinh địa 20g; huyền sâm, bạch thược, đan bì, mỗi vị 12g; mạch môn, bối mẫu, địa cốt bì, mỗi vị 8g; cam thảo, bạc hà, mỗi vị 4g. Sắc uống ngày một thang.
Chữa đau thắt ngực: Qua lâu 12g; đan sâm, xuyên khung, trầm hương, uất kim, mỗi vị 20g, hồng hoa 16g; xích thược, hương phụ chế, hẹ, mỗi vị 12g; xuyên quy vĩ 10g. Sắc uống ngày một thang cho đến khi hết đau thắt ngực.
Chữa thấp khớp mạn: Rễ qua lâu, thổ phục linh, cốt toái bổ, thạch cao, kê huyết đằng, đan sâm, sinh địa, rau má, uy linh tiên, hy thiêm, khương hoạt, độc hoạt, mỗi vị 12g; bạch chỉ 8g; cam thảo 4g. Sắc uống ngày một thang.
Địa chỉ bán cây giống qua lâu uy tín, chất lượng ?
Địa chỉ: Ngách 68/45, ngõ 68, đường Nguyễn Văn Linh, phường Long Biên, thành phố Hà Nội.
- Quý khách xin vui lòng liên hệ với Cây cảnh Hải Đăng để được các chuyên viên của chúng tôi tư vấn lựa chọn sản phẩm cây giống qua lâu phù hợp.
- Chúng tôi sẽ chụp ảnh sản phẩm cho quý khách nếu có yêu cầu.
- Chúng tôi sẽ kiểm tra kỹ hàng hóa đảm bảo chất lượng và đúng quy cách trước khi giao.
- Quý khách ở xa vui lòng tiến hành chuyển khoản trước hoặc đặt cọc trước. Nếu quý khách ở nội thành có thể áp dụng ship nhanh với chi phí 50k một lần ship.