Cây mộc tặc hay tiết cốt thảo, mộc tặc thảo, bút đầu thái, cỏ tháp bút, tên tiếng Anh là field horsetail, common horsetail, horse pipes, bottle-brush, snake-grass, devil’s-guts, horsetail fern, pine-grass, meadow-pine, foxtail-rush, marestail (danh pháp khoa học là Equisetum arvense L.; đồng nghĩa: Equisetum arvense f. arvense), là một loài thực vật có hoa thuộc họ Mộc tặc Equisetaceae.
Mộc tặc (Herba Equiseti arvensis) là toàn cây mộc tặc phơi khô.
Vì cây có đốt lại ráp, dùng để đánh gỗ cho nhẵn, do đó có tên là mộc tặc (mộc là gỗ, tặc là giặc, giặc đối với gỗ).




Mô tả cây mộc tặc
Mộc tặc là một loài cỏ sống lâu năm, thân rễ dài, có đốt, nằm sâu dưới đất (60 – 80cm), xuất hiện lên mặt đất hai thứ cành: Cành bất thụ và cành hữu thụ. Cành bất thụ xuất hiện sau và dài hơn cành hữu thụ, có thể dài đến 20 – 30cm, chia thành từng dóng, mang ở mỗi mấu một vòng lá nhỏ hình sợi đính liền vào nhau tại phía gốc thành một thứ bẹ ôm lấy cành. Cành có thể có nhiều nhánh con, những nhánh này cũng mọc vòng từ các mấu. Các dóng của cành đều rỗng, chỉ ở ngang mấu thì dày, phía ngoài có nhiều rãnh dọc mỗi rãnh ứng với một lỗ khuyết trong phần vỏ.
Cành hữu thụ (xuất hiện trước cành bất thụ vào đầu mùa xuân) thường màu nâu không phân nhánh, mang nhiều vòng bào tử diệp xếp xít lại phía đầu cành thành một bông trông giống đầu nhọn bút lông.
Ngoài cây Equisetum arvense nói trên, ở vùng Sapa (Lào Cai) và một số vùng lạnh khác trong nước ta, tại những nơi ẩm ở ven bờ sông, còn gặp một loài mộc tặc nữa gọi là Equisetum debile Roxb. ex Wall., cùng họ.
Thông tin thêm
1. Phân bố, thu hái và chế biến
Trong nước ta mộc tặc mọc ở nhiều nơi, nhưng ít chú ý dùng làm thuốc. Hái toàn cây về, bỏ lại thành từng bó con phơi khô; mùa thu hái vào tháng 9 – 10.
Mộc tặc có thể phát triển trong nhiều điều kiện khác nhau, từ những nơi có nhiệt độ dưới 5oC đến trên 20oC, thậm chí là ở những khu vực có lượng mưa hàng năm dao động từ chỉ 100 mm đến 2.000 mm. Cây thường thấy mọc ở các khu vực rừng thưa ẩm ướt, đồng cỏ, đất canh tác, ven đường hay gần bờ suối. Cây ưa đất sét pha cát hoặc pha thịt trung tính hoặc hơi kiềm, đặc biệt là nơi có mạch nước ngầm lớn.
Mộc tặc rất phổ biến ở bán cầu Bắc, từ tận 83o Bắc ở Bắc Mỹ đến 71o Bắc ở các nước Bắc Âu như Na Uy, Thụy Điển, Phần Lan và Nga. Ở bán cầu Nam, nó xuất hiện ít hơn nhưng vẫn được tìm thấy ở các nước như Argentina, Brazil, Chile, Madagascar, Indonesia, Úc và New Zealand.
2. Thành phần hoá học
Cây mộc tặc – Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi (đã sửa chính tả):
Trong mộc tặc có các axit silicic, chất béo, phytosterol, axit equisetolic, chất saponin, gọi là equisetonin (??), các chất alkaloid equisetin và nicotine.
Ngoài ra còn có equisetrin (glucoside) C27H30O16 (??), và isoquercitrin C21H20O12.
Trong mộc tặc Equisetum arvense L. có các hợp chất flavon, saponin, và một ít alkaloid:
1. Các hợp chất flavon có isoquercitrin, equisetrin, kaempferol 7-glucoside, astragalin, populin, kaempferol 3,7-diglucoside (Hegnauer R. Chemotaxonomie der Pflanzen (I) 1962, 247, 476 và Saleh N. A. M. et al. Phytochemistry 1972, II. 1095).
2. Các saponin: Equisetonin 1 – 5% thủy phân cho arabinose, fructose và equisetonigenin C27H48O6, ngoài ra còn có một chất phá huyết khác (Hegnauer R.).
3. Các alkaloid: 0,00004 – 0,002% nicotine, palustrine, equisetin C22H31NO4, nhưng cũng có tác giả không xác nhận có palustrine.
Trong bào tử mộc tặc người ta chiết được articulatin C12H22O13 và một lượng nhỏ isoarticulatin. Thủy phân articulatin ta sẽ được glucose và một genin có công thức C15H12O8. Ngoài ra trong bào tử còn một axit gọi là axit equisetolic (Bonnett R. et al. Phytochemistry, 1972, II, 2801).
Trong mộc tặc Equisetum hyemale L. người ta cũng chiết được một lượng nhỏ nicotine, dimethyl sulfone C2H6O2S, axit caffeic, độ tro 18,2% (Hegnauer R. Chemotaxonomie der Pflanzen III, 1964, 251), một ít tanin và saponin (Trung Quốc kinh tế thực vật chí, 1961, 1630). Ngoài ra còn 3 loại flavon là kaempferol 3,7-diglucoside, kaempferol 3-glucoside, 7-diglucoside (Saleh N. A. M. et al. Phytochemistry, 1972, II, 1095).
Công dụng và liều dùng mộc tặc
Tính chất theo tài liệu cổ: Vị ngọt hơi đắng, tính bình, vào 3 kinh phế, can và đởm. Có tác dụng giải cơ, cầm máu, tan màng mắt. Dùng chữa mắt đau chảy nước mắt, trĩ, huyết lỵ, băng trung.
Mộc tặc là một vị thuốc dùng trong nhân dân, có tác dụng lợi tiểu và cầm máu dùng trong bệnh chảy máu ruột và bệnh trĩ, còn dùng chữa đau mắt, ho hen, lỵ ra máu.
Liều dùng mỗi ngày 5 – 15g dưới dạng thuốc sắc.
Đơn thuốc có mộc tặc:
Mộc tặc 15g, phù bình 10g, xích đậu 100g, táo đen 6 quả, nước 600ml, sắc còn 200ml chia 3 lần uống trong ngày, chữa bệnh phù thũng viêm thận do bệnh ngoài da (Bài thuốc kinh nghiệm của Diệp Quyết Tuyền).
Địa chỉ bán cây giống mộc tặc uy tín chất lượng ?
Địa chỉ: Ngách 68/45, ngõ 68, đường Nguyễn Văn Linh, phường Long Biên, thành phố Hà Nội.
- Quý khách xin vui lòng liên hệ với Cây cảnh Hải Đăng để được các chuyên viên của chúng tôi tư vấn lựa chọn sản phẩm cây giống mộc tặc phù hợp.
- Chúng tôi sẽ chụp ảnh sản phẩm cho quý khách nếu có yêu cầu.
- Chúng tôi sẽ kiểm tra kỹ hàng hóa đảm bảo chất lượng và đúng quy cách trước khi giao.
- Quý khách ở xa vui lòng tiến hành chuyển khoản trước. Nếu quý khách ở nội thành có thể áp dụng ship nhanh với chi phí 30k một lần ship.