Độ hoàn thiện nội dung: 60%.
Cà phê hay cà phê chè, tên tiếng Anh là Arabica coffee (danh pháp khoa học là Coffea arabica L.), là một loài thực vật có hoa thuộc họ Thiến thảo Rubiaceae.


Mô tả cây cà phê
Cây cà phê – Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – Tập I – Đỗ Huy Bích cùng các tác giả khác (đã sửa chính tả):
Cây nhỏ, mọc sum sê, luôn xanh, cao 6 – 10m. Thân cành hình trụ hoặc hình vuông, phân nhánh nhiều. Lá mọc đối, hình bầu dục hoặc hình trứng, dài 10 – 15cm, rộng 5 – 6cm, gốc tròn, đầu nhọn, mặt trên xanh sẫm bóng, mát dưới rất nhạt, gân nổi rõ, mép uốn lượn; cuống lá dài 0,7 – 1cm; lá kèm có gốc rộng, đầu nhọn. Hoa mọc tụ tập ở kẽ lá, màu trắng, rất thơm; đài cụt; tràng hình ống ngắn, 5 cánh hoa đều; nhị 5 dính ở họng tràng, xen kẽ với cánh hoa, bầu 2 6, mỗi ô chứa 1 noãn. Quả hạch, hơi dẹt, lúc đầu màu lục, sau vàng với màu đỏ, chứa 2 hạt dẹt, hơi cong, màu xám. Mùa hoa quả: tháng 11 – 4.
Thông tin thêm
1. Phân bố và sinh thái
Cây cà phê – Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – Tập I – Đỗ Huy Bích cùng các tác giả khác (đã sửa chính tả):
Với đặc điểm hoa mọc tụ tập dạng xim co, chi Coffea L. được xếp trong ho phụ Ixoroideae (họ Rubiaceae) và tông Coffeae. Chi này có khoảng gần 100 loài và dưới loài, phân bố rải rác khắp vùng nhiệt đới, nhưng tập trung nhiều nhất ở vùng nhiệt đới của châu Phi.
Hiện nay, có 3 loài và rất nhiều giống cà phê được trồng rộng rãi trên thế giới. Về nguồn gốc phát nguyên của chúng cụ thể như sau:
Cà phê chè (Coffea arabica L.; đồng nghĩa: C. vulgaris Moench; C. arabica var. angustifolia Cramer; C. arabica var. sundana (Miq.) A.Chev.). Có nguồn gốc từ vùng cao nguyên phía tây – nam Ethiopia, là nơi hiện có mức đa dạng di truyền cao nhất của loài này trên thế giới. Cà phê chè được người Ả Rập trồng đầu tiên ở Yemen vào thế kỷ XI đến thế kỷ XVI và XVII, cây được du nhập sang vùng Nam Á là Ấn Độ và Sri Lanka. Sau đó, cà phê chè được trồng ở đảo Java (Indonesia) năm 1710, ở vùng Caribe và Nam Mĩ (thế kỷ XVIII). Hiện nay, cà phê chè đang được trồng nhiều ở vùng châu Mỹ Latinh, Trung Phi, Ấn Độ, Papua New Guinea, Indonesia, Philippines, Myanmar, Thái Lan và Việt Nam.
Cà phê vối (Coffea canephora Pierre ex A.Froehner; đồng nghĩa: C. robusta L.Linden; C. laurentii De Wild.; C. ugandae Cramer). Có nguồn gốc ở vùng rừng xích đạo châu Phi, từ Guinea đến Uganda. Cà phê vối cũng sớm được thuần hóa và trồng ở châu Phi, đến năm 1900 du nhập vào đảo Java sau đó tiếp tục được đưa sang nhiều nước nhiệt đới khác. Hiện nay, cà phê vối được trồng nhiều nhất ở Indonesia, sau đó đến Việt Nam, Ấn Độ, …
Cà phê mít (Coffea liberica W.Bull; đồng nghĩa: C. dewevrei De Wild. & T.Durand; C. arnoldiana De Wild.; C. klainei Pierre ex De Wild.; C. excelsa A.Chev.; C. abeokutae Cramer). Có nguồn gốc ở vùng nhiệt đới Trung và Tây Phi. Năm 1792, cây được trồng đầu tiên ở Liberia; từ năm 1872 – 1875 nhập vào Indonesia; đến 1880 được trồng ở bán đảo Malaysia. Hiện nay, cà phê mít được trồng ở nhiều nước như Guyana, Suriname, São Tomé, Liberia, Malaysia, Philippines, Sierra Leone, Nigeria, Congo, Mauritania, Sri Lanka, Ấn Độ, Thái Lan, Đông Timor, Đài Loan và Việt Nam.
Nhìn chung, các loại cà phê là cây nhiệt đới, ưa khí hậu nóng và ẩm; nhiệt độ trung bình 21 – 26oC, tối cao trung bình 34 – 36oC, tối thấp trung bình khoảng 10oC; lương mưa 1400 – 24000 mm/năm. Tuy nhiên, trong số 3 loài cà phê kể trên, cà phê chè trồng được ở cả những vùng xa xích đạo, ở vĩ độ 23o (Bắc và Nam) thuộc Ấn Độ, Bắc Việt Nam và Nam Phi với nhiệt độ không khí trung bình 18 – 22oC, cây vẫn phát triển tốt. Song, cà phê chè sẽ chết nếu gặp sương muối và nhiệt độ hạ thấp xuống gần 0oC.
Cà phê là cây ưa sáng hay có thể hơi chịu bóng. Ở các vùng phân bố nguyên thủy, cà phê thường mọc lẫn trong các kiểu rừng thưa, ở ven rừng hay trên các khoảng trống trong rừng rậm mới được mở tán (do cây gờ bị đổ hay khai thác). Vì vậy, trong các đồn điền trồng cà phê người ta thường trồng xen một số cây họ đâu tán thưa như keo giậu (Leucaena leucocephala (Lam.) de Wit), muồng đen (Senna siamea (Lam.) H.S.Irwin & Barneby), bồ kết (Gleditsia fera (Lour.) Merr.) … để tạo bóng. Cà phê có thể sinh trưởng phát triển tốt trên nhiều loại đất, song tốt nhất vẫn là các loại đất đỏ nâu thuộc nhóm bazan hoặc đất đã được phong hóa từ nham thạch núi lửa … Những loại đất này thường có tầng đất thịt sâu khoảng 2m, dễ thấm nước và có hàm lượng mùn cao 2%; pH: 5 – 6. Duy có loài cà phê mít có thể chịu được đất chua hơn (pH: 4) và chịu hạn tốt.
Cà phê thuộc loại cây sinh trưởng nhanh. Cây trồng từ hạt sau 3 năm (1 năm ở vườn ươm) bắt đầu có hoa; càng về sau lượng hoa quả càng nhiều. Tùy toại cà phê mà thời gian thu hoạch kéo dài từ 20 đến 30 năm. Cà phê nở hoa rộ trong khoảng 15 – 20 ngày; hoa thụ phần chủ yếu nhờ côn trùng, tỷ lệ tự thụ phấn chỉ chiếm khoảng 10% (H. A. M. Van Der Vossen et al., 2000: PROSEA – Stimulants, No16:69). Hạt cà phê có tỷ lệ nảy mầm cao (đến 95%); khả năng nảy mầm này sẽ giảm dần sau 3 – 6 tháng. Tuy nhiên, nếu được bảo quản ở nhiệt độ 15oC, tỷ lệ nảy mầm cao có thể duy trì được trong thời gian 15 – 30 tháng sau.
Cà phê ở Việt Nam là do người Pháp đưa vào từ cuối thế kỷ XIX hoặc đầu thế kỷ XX. Sau một thời gian ngắn thử nghiệm, đã phát triển thành những đồn điền cà phê lớn ở Tây Nguyên. Hiện nay ở Việt Nam có đủ 3 loài cà phê nói trên (với nhiều loại giống và xuất xứ khác nhau). Các tỉnh ở Tây Nguyên, gồm Đắk Lắk, Gia Lai, Kon Tum, Lâm Đồng có diện tích trồng cà phê lớn nhất. Tiếp sau là tình Bình Dương, Đồng Nai, Bình Định, Phú Yên và một số tỉnh ở phía bắc.
Tổng diện tích trồng cà phê ở Việt Nam lên đến hàng chục vạn hecta; sản lương dành cho xuất khẩu năm 1998 là 400.000 tấn (những năm gần đây đã vượt xa con số này). Với khả năng phát triển nhanh chóng diện tích cà phê như hiện nay, Việt Nam đã vươn lên hàng những quốc gia sản xuất cà phê lớn trên thế giới. Tuy nhiên, do tình trạng phát triển cà phê ổ ạt, nên nạn phá rừng, và làm suy giảm nhanh chóng lượng nước ngầm đang là những vấn đề nan giải về mặt môi trường sinh thái và đa dạng sinh học ở Việt Nam.


2. Thành phần hoá học
Cây cà phê – Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – Tập I – Đỗ Huy Bích cùng các tác giả khác (đã sửa chính tả):
Cà phê sống chứa:
– Glucid: Có nhiều (chiếm hơn một nửa so với dược liệu khô kiệt) trong đó, có 5 – 8% đường khử và saccharose, ít manitol, polysaccharide (raffinose và stachyose), galactomannan, xylan, araban, hemicellulose, cellulose. Không có tinh bột trong hạt già.
– Lipid: 10 – 15% gồm các glycerid của các acid palmitic, stearic, oleic và linoleic. Phần không xà phòng hóa (5%) có sterol và diterpene: Cafestol và kahweol.
– Acid hữu cơ: Acid oxalic, acid citric và acid malic (có ít), acid ursolic.
– Acid phenol: 5 – 10% acid chlorogenic.
Sau này, người ta nhận thấy trong cà phê có nhiều đồng phân:
+ Acid chlorogenic chính tên: acid 3-caffeoylquinic (có nhiều nhất).
+ Acid neochlorogenic (acid 5-caffeoylquinic).
+ Acid cryptochlorogenic (acid 4-caffeoylquinic).
Acid isochlorogenic là hỗn hợp các ester gồm 2 phân tử acid caffeic liên kết với một phân tử acid quinic. Cà phê còn chứa các ester khác của acid quinic và các acid cùng họ với acid caffeic: Acid p-coumaric và acid ferulic.
Trong cà phê, acid chlorogenic chính tên thường kết hợp với caffeine dưới dạng phức chất: Kali và caffeine chlorogenat.
Các hợp chất nitơ gồm:
– Protid: 10 – 15%.
– Trigonelline.
– Các base có nhân purin: Caffeine (1 đến 2,557), xanthine, guanine, adenine và theobromine.
Caffeine có trong nhiều loài Coffea như: C. canephora (1,5 – 2,5; có khi tới 3%); C. arabica 0,8 – 1,5%. Một số loài cà phê hoang dại không có caffeine.
caffeine có trong nhiều bộ phận của cây lá: 0,5 – 1,0% (có nhiều trong lá non), hoa: 0,5 – 0,9%, thân: 0,08%; thịt quả: 0,9%.
Lá và quả chưa chín của loài C. arabica chứa acid pipecolic cùng với proline và hydroxyproline (CA 124: 141.034e).
Các chất bay hơi của quả chín loài C. arabica gồm nhiều thành phần trong đó có hexanal 21%; 2-(E)-hexenal 11%; 3-methyl-1-butanol 9%; 3-methyl-1-butanal 8,5%; 1-hexanol 8,4%; decanal 0,19%; methyl hexanoate 0,33%; pulegone 0,44%; α-isomenthon 0,45%; 2-nonanone 0,55%.
Hoa của loài C. arabica chứa một số hợp chất thơm có N như các dẫn chất phenylethan và các epoxygeraniol (2,3-epoxygeraniol và 6,7-epoxygeraniol).
Cà phê rang có nhiều thay đổi về hóa học:
– Nước giảm khoảng 5%.
– Chất vô cơ không thay đổi.
– Glucid: Thay đổi nhiều saccharose có phần chuyển hoa, nhiều chất hòa tan xuất hiện do các polysaccharide không hòa tan chuyển hóa.
– Các acid chlorogenic bị phân hủy một phần, nhất là các đồng phân không tạo ra phức với caffeine.
– Caffeine có phần bị thăng hoa.
– Trigonelline giảm đi với sự xuất hiện của acid nicotinic (từ 2 mg% ở cà phê sống nay lên tới 13 – 43mg To ở cà phê rang).
Các chất thơm trong cà phê rang C. arabica (I), C. robusta (II) là (mg/kg): 2-furfurylthiol (1,08 I; 1,73 Il); methional (0,24 I; 0,095 II); 3-mercapto-3-methylbutyl formate (0,13 I; 0,115 II); 2-ethyl-1,5-dimethylpyrazine (0,33 l; 0,94 II); 2,3-diethyl-5-methylpyrazine (0,095 I; 0,31 II); guaiacol (4,2 I; 28,2 II); 4-vinylguaiacol (64,8 I; 177,7 II); 4-ethylguaiacol (1,63 I; 18,1 II); vanillin (4,8 I; 16,1 II); (E)-β-damascenone (0,195 I; 0,205 II); 4-hydroxy-2,5-dimethyl-3(2H)-furanone (109 I; 57 II); 3-hydroxy-4,5-dimethyl-2(5H)-furanone (1,47 I; 0,63 II); 5-ethyl-3-hydroxy-4-methyl-2(5H)-furanone (0,16 I; 0,085 II); 5-ethyl-4-hydroxy-2-methyl-3(2H)-furanone (17,3 I; 14,3 II) (Molière médicale III. 1971; CA 127: 231.878x; CA 127: 31.554d; CA 122: 212.353c).


3. Tác dụng dược lý
Cây cà phê – Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – Tập I – Đỗ Huy Bích cùng các tác giả khác (đã sửa chính tả):
Theo tài liệu nước ngoài, quả cà phê tươi có tác dụng hạ sốt, lợi tiểu. Hạt cà phê rang chế biến thành đồ uống có tác dụng kích thích. Caffeine là hoạt chất chính trong hạt cà phê. Nó có tác dụng kích thích thần kinh trung ương, hệ tim mạch, lợi tiểu và làm giãn cơ trơn.
Đối với hệ thần kinh trung ương, caffeine có tác dụng mạnh nhất trong các methylxanthine. Người dùng caffeine hoặc đồ uống có chứa caffeine cảm thấy tỉnh táo, mất buồn ngủ, ít mệt mỏi và suy tư minh mẫn. Caffeine dùng với liều lớn thì kích thích thần kinh trung ương càng phát triển, xuất hiện trạng thái bồn chồn lo lắng, mất ngủ, ở những người quen dùng cà phê, những triệu chứng này nhẹ hơn. Liều cao làm xuất hiện co giật cục bộ hoặc toàn thân. Caffeine còn có tác dụng kích thích hô hấp đặc biệt trong trường hợp bệnh lý như hô hấp bị ức chế bởi các opioid hoặc hô hấp Cheyne-Stokes. Đối với hệ tim mạch, caffeine có tác dụng làm giảm trở kháng ngoại vi, kích thích tim. Liều 250 – 350mg caffeine gây nên nhịp tim nhanh, huyết áp tăng nhẹ cả huyết áp tâm thu và huyết áp tâm trương, nhưng cũng với liều trên đối với những người thường xuyên dùng cà phê thì các triệu chứng trên không xuất hiện. Ở nồng độ cao hơn, caffeine có tác dụng làm tăng nhịp tim rõ rệt, ở những người mẫn cảm có thể xuất hiện loạn nhịp tim; hiện tượng này cũng gặp ở những người dùng quá nhiều đồ uống có caffeine. Tuy vậy, ở những người khỏe mạnh bình thường, nguy cơ xuất hiện loạn nhịp tim do caffeine là rất thấp. Đối với cơ trơn, caffeine có tác dụng làm giãn cơ trơn khí phế quản đặc biệt đối với khí phế quản bị co thắt như ở những bệnh nhân hen suyễn trên lâm sàng hoặc trong các mô hình gây co thắt khí phế quản thực nghiệm. Đối với cơ vân, caffeine có tác dụng tăng cường khả năng làm việc của cơ bắp ở người. Caffeine với liều 6 mg/kg làm tăng khả năng chạy đua của những vận động viên trượt tuyết. Đối với hệ tiết niệu, caffeine tăng cường sự hình thành nước tiểu, gia tăng tốc độ lọc của cầu thận và tăng lượng máu qua thận.
Công dụng của cây cà phê
Cà phê được dùng làm đồ uống dưới dạng chiết hãm bằng nước sôi từ bột hạt cà phê rang, hoặc dưới dạng cà phê tan. Uống cà phê làm mất buồn ngủ, giúp tỉnh thần tỉnh táo, giảm cảm giác mệt mỏi. Còn dùng làm thuốc lợi tiểu, chữa phù thũng, giúp tiêu hóa.
Uống quá nhiều đồ uống có cà phê gây rối loạn tiêu hóa được xem là do chất cafeotoxin, một thành phần độc bay hơi được hình thành trong quá trình rang cà phê và chỉ có một phần hay hơi.
Alkaloid caffeine và các dạng muối như caffeine citrate và caffeine natri benzoate được dùng trong trường hợp cấp cứu ngộ độc opioid và các thuốc gây ngủ khác.
Trong nhân dân, hạt cà phê sống giã nát ngâm với rượu uống chữa tê thấp, sốt rét. Cà phê rang uống có tác dụng tiêu mỡ, tiêu độc rượu và thuốc phiện. Người khó ngủ không nên dùng cà phê. Lá cà phê sắc uống làm chóng tiêu thức ăn, tiêu nước chữa phù thũng.

Cách trồng cà phê
Cây cà phê – Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – Tập I – Đỗ Huy Bích cùng các tác giả khác (đã sửa chính tả):
Trồng cà phê cần chọn đất có tầng canh tác dày trên 70cm, mực nước ngầm dưới 1m, tơi xốp, thoát nước, hàm lượng mùn khoảng 2%, pH gần trung tính. Nếu là đất hoang, cần cải tạo bằng cách cày bừa, trồng 1 – 2 vụ cây phân xanh.
Cà phê có thể nhân giống bằng hạt và giâm cành (trong tương lai, giâm cành có thể thay thế phương pháp nhân giống bằng hạt). Hạt giống cần được xử lý nảy mầm và gieo trong bầu vào tháng 10 – 12. Thời vụ trồng ở miền Nam vào tháng 5 – 6, ở miền Bắc tháng 8 – 9. Nếu để cây giống trong bầu quá lứa, cần cắt bỏ thân, chi để lại khoảng 15cm. Tùy giống và điều kiện đất đai, chăm sóc, khoảng cách trồng có thể từ 2 x 2m đến 4 x 4m. Khi trồng, đào hố 60 x 60 x 60cm hoặc hơn, bón lót 10 – 20kg phân chuồng ủ lẫn với 500g phân lân nung chảy. Đặt bầu thấp hơn mặt đất và tránh không làm vỡ bầu.
Cần trồng cây che bóng cho cà phê như các cây cốt khí, muồng lá dài, muồng lá tròn vào giữa các hàng để che bóng tạm thời và muồng đen với khoảng cách 10 x 12m để che bóng lâu dài.
Cà phê cần được bón đầy đủ và cân đối NPK. Nhu cầu phân bón của cây tăng nhanh vào thời kỳ quả lớn và vào năm thứ 3, 4. Tưới nước quyết định việc ra hoa kết quả và tạo năng suất của cà phê, vì vậy cần tập trung tưới đón hoa, nuôi quả, lương nước tưới 400 – 50ml/ha/lần (4 – 6 lần)
Sâu đục thân và bệnh gỉ sắt là 2 loại sâu bệnh nguy hiểm nhất đối với cà phê. Cần chú ý phòng trừ. Quả cần thu đúng độ chín (2/3 quả màu đỏ) và chế biến kịp thời.
Địa chỉ bán cây giống cà phê uy tín, chất lượng ?
Địa chỉ: Ngách 68/45, ngõ 68, đường Nguyễn Văn Linh, phường Long Biên, thành phố Hà Nội.
- Quý khách xin vui lòng liên hệ với Cây cảnh Hải Đăng để được các chuyên viên của chúng tôi tư vấn lựa chọn sản phẩm cây giống cà phê phù hợp.
- Chúng tôi sẽ chụp ảnh sản phẩm cho quý khách nếu có yêu cầu.
- Chúng tôi sẽ kiểm tra kỹ hàng hóa đảm bảo chất lượng và đúng quy cách trước khi giao.
- Quý khách ở xa vui lòng tiến hành chuyển khoản trước hoặc đặt cọc trước. Nếu quý khách ở nội thành có thể áp dụng ship nhanh với chi phí 50k một lần ship.