Cây cứt lợn hay cây hoa ngũ vị, cây bù xít, thắng hồng kế, cỏ hôi, cỏ thúi địt (địt ở đây có nghĩa là rắm), tên tiếng Anh là billygoat-weed, chick weed, goatweed, whiteweed, mentrasto (danh pháp khoa học là Ageratum conyzoides L.) là một loài cây thuộc họ Cúc Asteraceae. Cây có nguồn gốc từ Châu Mỹ nhiệt đới, đặc biệt là Brazil nhưng hiện đã xuất hiện ở nhiều nơi trên thế giới. Tại Việt Nam, cây ít khi được để ý và thường bị coi là loài cỏ dại cần được nhổ bỏ, nhất là trong canh tác nông nghiệp. Gọi là cây cứt lợn vì người ta thấy cây này toàn mọc ở những nơi bẩn thỉu, hôi thối. Tuy nhiên, đây vẫn là một loài cây thuốc trong Đông y.


Mô tả cây cứt lợn
Cứt lợn là một loài cây nhỏ, mọc hằng năm, thân có nhiều lông nhỏ, mềm, cao khoảng 25 – 50 cm, thường mọc hoang. Lá mọc đối xứng hình trứng hay ba cạnh, dài từ 2 – 6 cm, rộng 1 – 3 cm, mép có răng cưa tròn, hai mặt đều có lông, mặt dưới có màu nhạt hơn. Hoa nhỏ, màu tím xanh. Quả màu đen, có 5 sống dọc.
Cây này chứa các alkaloid pyrrolizidine độc là lycopsamine và echinatine.
Thông tin thêm
1. Phân bố, thu hái và chế biến
Cứt lợn mọc hoang dại ở khắp nơi. Người ta hái toàn cây cắt bỏ rễ, dùng tươi hay khô. Thường hay dùng cây hơn.
2. Thành phần hoá học
Cây hoa cứt lợn (cây hoa ngũ sắc) – Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi (đã sửa chính tả):
Thành phần hoạt chất chưa rõ. Chỉ mới biết trong cây có khoảng 0,16% tinh dầu đặc (cây khô kiệt) tỷ trọng 1,109, αD = 1o20, chỉ số axit 0,9, chỉ số este 11,2. Người ta nghi trong tinh dầu có cumarin.
Trong hoa có 0,2% tinh dầu, có mùi gây nôn, tỷ trọng 0,9357, αD = 9o27. Trong tinh dầu hoa lá đều có cadinene, caryophyllene, ageratochromene, demethoxyageratochromene và một số thành phần khác (1973 Sood V. K. Flavour Industry 2: 77).
Theo Nguyễn Văn Đàn và Phạm Trương Thị Thọ (1973 Thông báo được liệu) thì hàm lượng tinh dầu từ 0,7 đến 2%, tinh dầu hơi sánh đặc, màu vàng nhạt đến màu vàng nghệ, mùi thơm dễ chịu. Chỉ số axit 4,5, chỉ số este 252 đến 254, αD từ -3o8 đến -5o3.
Có tác giả lại tìm thấy alkaloid và saponin.
Theo Nguyễn Xuân Dũng và cộng sự (J. Ess. Oil Res. L 135-136 May-June, 1989) thành phần chủ yếu của tinh dầu gồm precocen I (6-Demethoxyageratochromene) precocen II (ageratochromene) và caryophyllene. Ba thành phần này chiếm 77% tinh dầu.
3. Tác dụng dược lý
Cây hoa cứt lợn (cây hoa ngũ sắc) – Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi (đã sửa chính tả):
Năm 1965, y sĩ Điều Ngọc Thực ở Phú Thọ đã phát hiện thấy trong nhân dân dùng cây cứt lợn chữa viêm xoang mũi dị ứng, đã áp dụng trên bản thân và một số người khác thấy có kết quả tốt.
Trên cơ sở thực tế kết quả trên lâm sàng, Đoàn Thị Nhu và cộng sự (1975, Dược học 4 và 5) đã xác định độc tính cấp LD50 bằng đường uống là 82g/kg. Với liều độ bán mãn dùng trong 30 ngày không thấy gây những biến đổi bất thường đối với các hằng số sinh hoá trong một số xét nghiệm về cơ năng gan và thận.
Trên súc vật thí nghiệm thấy có tác dụng chống viêm, chống phù nề, chống dị ứng phù hợp với những kết quả thu được trên thực tế làm sàng điều trị viêm mũi cấp và mãn tính.
Ứng dụng trong Đông y
Theo Đông y, cây hoa cứt lợn có vị cay, đắng, tính mát; vào 2 kinh Thủ thái âm Phế và Thủ quyết âm Tâm bào. Có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, sát trùng, tiêu thủng, trục ứ. Dùng chữa cảm mạo phát sốt, các chứng bệnh yết hầu sưng đau, ung thủng, mụn nhọt … Sách Quảng Đông trung dược còn nói dùng để trị bệnh sa tử cung và u tử cung.
Liều dùng khi uống trong: từ 15 – 30g khô (hoặc 30 – 60 g tươi), sắc với nước uống hoặc giã vắt lấy nước cốt uống; dùng ngoài không kể liều lượng.
Bài thuốc chữa viêm xoang: Cây tươi rửa sạch, giã nát, vắt lấy nước tẩm vào bông, dùng bông nhét vào lỗ mũi. Chữa rong huyết sau khi sinh nở: 30 – 50g cây tươi, rửa sạch, giã nát, vắt lấy nước uống trong ngày.
Một số ứng dụng cụ thể:
- Phụ nữ bị rong huyết sau khi sinh nở: Trong dân gian có kinh nghiệm hái chừng 30 – 50 g cây hoa cứt lợn tươi, đem về rửa sạch, giã nát, vắt lấy nước cốt và chia 3 lần uống trong ngày. Uống liên tục trong 3 – 4 ngày (Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam).
- Trị các chứng bệnh ở yết hầu (bao gồm cả bạch hầu): Hái chừng 30 – 60 g lá cây hoa cứt lợn tươi; giã nát vắt lấy nước cốt, hòa thêm nước và đường phèn vào, chia 3 lần uống trong ngày; cũng có thể lấy lá phơi khô, tán mịn, dùng làm thuốc bột – ngậm và nuốt dần xuống họng (Tuyền Châu bản thảo).
- Trị nhọt độc sưng đau: Nhổ cả cây hoa cứt lợn, rửa sạch, trộn với cơm nguội, thêm chút muối, trộn đều, giã nát, đắp vào chỗ có bệnh (Tuyền Châu bản thảo).
- Trị “ngư khẩu tiện độc” (chỉ nên tham khảo, vì cần tìm hiểu thêm): Lá cây hoa cứt lợn tươi 100 – 120 g, trà bính 15 g. Tất cả đem giã nát, hơ nóng rồi đắp vào chỗ bị bệnh (Phúc Kiến dân gian thảo dược). “Ngư khẩu tiện độc” là tên chứng bệnh ngoại khoa của Đông y, do bị bệnh giang mai, hạch bạch huyết ở bẹn sưng tấy (Syphilitic buto), nếu sưng hạch ở bên trái thì Đông y gọi là “ngư khẩu”, còn ở bên phải gọi là “tiện độc”.
- Sưng đau do giãn gân, sái xương: Lấy một nắm cây hoa cứt lợn khô, cho vào lò đốt cháy và hun khói vào chỗ đau (Phúc Kiến dân gian thảo dược).
- Cảm mạo phát sốt: Lấy cây hoa cứt lợn tươi 60g, sắc nước uống (Quảng Tây trung thảo dược)
- Ngoại thương xuất huyết: Lấy một nắm cây hoa cứt lợn, gĩa nát đắp vào chỗ bị thương (Quảng Tây trung thảo dược).
- …
Mua cây cứt lợn ở đâu uy tín chất lượng ?
Địa chỉ: Ngách 68/45, ngõ 68, đường Nguyễn Văn Linh, Long Biên. Đối diện với Tổng công ty may 10, Hà Nội.
- Quý khách xin vui lòng liên hệ với Cây cảnh Hải Đăng để được các chuyên viên của chúng tôi tư vấn lựa chọn sản phẩm cây giống cứt lợn phù hợp.
- Chúng tôi sẽ chụp ảnh sản phẩm cho quý khách nếu có yêu cầu.
- Chúng tôi sẽ kiểm tra kỹ hàng hóa đảm bảo chất lượng và đúng quy cách trước khi giao.
- Quý khách ở xa vui lòng tiến hành chuyển khoản trước. Nếu quý khách ở nội thành có thể áp dụng ship nhanh với chi phí 30k một lần ship.