Độ hoàn thiện nội dung: 60%.
Cải canh hay cải bẹ xanh, cải xanh, cải canh, cải cay, giới tử, tên tiếng Anh là mustard greens, brown mustard, Chinese mustard, Indian mustard, Korean green mustard, leaf mustard, Oriental mustard, vegetable mustard (danh pháp khoa học là Brassica juncea (L.) Czern.) là một loài rau trong họ Cải Brassicaceae.



Mô tả cây cải canh
Cây cải canh – Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi (đã sửa chính tả):
Cải canh là một loài cỏ mọc một năm hay hai năm có thể cao tới 1m hoặc 1,50m. Lá phía dưới có rãnh sau, phiến lá lượn sóng, mép có răng cưa to thô. Hoa mọc ở đầu cành hoặc kẽ lá, màu vàng. Quả hình trụ có mỏ ngắn. Hạt hình cầu, đường kính 1 – 1,6mm, 100 hạt chỉ nặng chừng 0,20g. Vỏ ngoài màu vàng hay vàng nâu, một số ít có màu nâu đỏ. Nhìn qua kính lúp sẽ thấy mặt hạt có những vân hình mạng, tế là một chấm rất rõ, ngâm nước sẽ phồng to, sau khi loại bỏ vỏ, hạt sẽ lộ ra hai lá mầm. Hạt khô không có mùi, vị như có dầu lúc đầu, nhưng sau có vị cay nóng. Tán nhỏ với nước sẽ có tinh dầu mùi hắc xông lên.
Cây cải canh – Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – Tập I – Đỗ Huy Bích cùng các tác giả khác (đã sửa chính tả):
Cây thảo, sống hàng năm, cao khoảng 50 cm. Thân hình trụ, nhẵn. Lá mọc so le, hình trái xoan, phiến ở phía cuống dài khoảng 14cm, rộng 7cm. chia thành nhiều tai nhỏ, phía trên chia ít hơn, mép khía răng không đều, lá ở gần ngọn hình mác, dài 5cm, rộng 5 – 10mm.
Cụm hoa mọc ở ngọn thân thành chùm ngù; hoa màu vàng; đài có răng nhọn, màu vàng; tràng có cánh dài hơn lá đài; nhị 6, trong đó, 4 cái rất to; bầu hình chỉ. Quả thuôn dài, đầu có mũi nhọn, hạt nhỏ hình cầu, màu đen. Mùa hoa quả: tháng 1 – 5.
Thông tin thêm
1. Phân bố và sinh thái
Cây cải canh – Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi (đã sửa chính tả):
Được trồng ở nước ta để lấy rau ăn. Hiện nay ta chưa thu hoạch hạt để dùng làm thuốc hoặc ép dầu. Cho đến nay, ta vẫn còn phải nhập giới tử của Trung Quốc. Ở Trung Quốc người ta trồng rau cải để ăn rau, lấy hạt ép dầu và làm thuốc. Hạt lấy ở những quả chín phơi khô mà dùng. Phơi hay sấy phải ở nhiệt độ dưới 50o để bảo vệ các men có tác dụng.
Cây cải canh – Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – Tập I – Đỗ Huy Bích cùng các tác giả khác (đã sửa chính tả):
Cải canh là kết quả lại tự nhiên giữa hai loài Brassica nigra (L.) W.D.J.Koch và Brassica rapa L.. Nguồn gốc khởi nguyên của cây có thể ở vùng Trung Á, thuộc khu vực Tây – Bắc Ấn Độ (bang Punjab và Kashmir) vì ở đây hiện vẫn còn 2 loài trên mọc nhiều trong tự nhiên (R. T. Opeña, 1994; PROSEA – Vegetables – No8:104 – 108). Trải qua quá trình dài được trồng và tạo giống, nhiều giống cải khác nhau từ loài cải canh nguyên thủy đã được hình thành. Tuy nhiên, có thể phân loại chúng thành 2 nhóm chính là nhóm cải lấy lá, thân, rễ củ làm rau xanh và nhóm lấy hạt ép dầu.
Trung Quốc được coi là một trung tâm đa dạng cao của các giống cải, đồng thời ở đây cũng là nơi sớm đưa cải canh vào trồng trọt. Cùng với đợt di cư của các tộc người Hoa, cải canh đã được mang theo, trồng trọt khắp vùng Đông Nam Á. Hiện nay, các giống cải từ cải canh kể trên đã được trồng khắp vùng Âu, Á, Bắc Mỹ và châu Đại Dương.
Ở Việt Nam, cải canh cũng là cây trồng lâu đời ngay sau ngày hòa bình ở miền Bắc, một số giống cải canh từ Trung Quốc đã được đưa vào làm phong phú thêm các loại rau xanh vốn có ở Việt Nam. Vài năm gần đây, nhiều giống cải mới (cải ngọt, cải tím, cải dầu … ) tiếp tục được nhập trồng ở các tỉnh phía bắc và Đà Lạt (Lâm Đồng). Nhìn chung, tất cả các loại cải canh hay cải dầu đều là cây trồng ngắn ngày, đặc biệt ưa ẩm, ưa đất trồng màu mỡ và tùy từng giống cải có thể sinh trưởng phát triển tốt ở các vùng có khí hậu khác nhau. Tuy nhiên, có một số đặc điểm chung nhất cho các loại cải là các giống cải canh có lá to thường thích nghi với môi trường ẩm mát hoặc có thể hơi lạnh. Còn các giống lá nhỏ có thể trồng ở vùng nhiệt đới, ngay cả trong mùa hè. Cải canh không chịu được thời tiết mưa kéo dài hoặc bị ngập úng. Các giống cải dầu sau khi đã có hoa và đậu quả lại có thể hơi chịu hạn, hoặc sống được ở những vùng có lượng mưa thấp như vùng Tây, Tây – Nam Trung Quốc và vùng Trung Á (Pakistan, Afghanistan, Turkmenistan … ). Cải canh ra hoa quả nhiều, hoa thụ phấn nhờ côn trùng hay tự thụ phấn. Hạt cải là một trong số những loài cây có tỷ lệ nảy mầm rất cao.

2. Thành phần hoá học
Cây cải canh – Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi (đã sửa chính tả):
Trong giới tử có một glucoside gọi là sinigrin, chất men myrosin, acid sinapic C11H12O5, một ít alkaloid gọi là sinapine C16H24NO5, chất nhầy, chất protid và chừng 37% chất béo trong đó chủ yếu là este của acid sinapic, acid arachidic và acid linolenic.
Sinigrin hay sinigroside, khi bị myrosin thuỷ phân sẽ cho sunfat acid của kali, glucose và allyl isothiocyanate.
Chất allyl isothiocyanate là một tinh dầu có độ sôi 151oC, có tính chất kích thích mạnh.
Nếu tán nhỏ giới tử, thêm nước, trộn đều và để một ngày rồi thêm nước vào mà cất thì sẽ được chừng 0,93% tinh dầu không màu, trong đó có chừng 90% allyl isothiocyanate. Dược thư Trung Quốc quy định giới tử phải có ít nhất 0,6% tinh dầu (loại tốt có thể có tới 1,4%). Tạp chất hữu cơ không được quá 5%.
Chất myrosin ở nhiệt độ trên 60o sẽ bị phá huỷ, do đó khi phơi khô, sấy hay chế thuốc không được dùng nhiệt độ cao quá 50oC. Những chất như cồn, axit có tính chất làm vón protid, cũng phá huỷ tác dụng của myrosin.
Cây cải canh – Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – Tập I – Đỗ Huy Bích cùng các tác giả khác (đã sửa chính tả):
Hạt cải canh chứa dầu béo 30 – 38%, tinh dầu 2 – 9%, chất nhầy.
Dầu béo có tỷ trọng 0,995; nD 1,5185; αD + 0o12’; chứa nhiều acid béo như acid erucic, acid eicosenoic, acid behenic, acid sinapic, acid arachidic, it sinapine (ester của choline và acid sinapic hoặc acid hydroxydimethoxycinnamic); protid có trọng lượng phân tử 22900, 13000; brassicasterol; 22-dehydrocampesterol; nhiều enzyme (thioglucosidase, sulfatase, isomerase mà hỗn hợp gọi là myrosinase).
Hoạt chất là sinigroside 0,5 – 2%, nếu đem thủy phân bằng enzyme (myrosinase) sẽ cho glucose, sulfat acid của K và allyl isothiocyanate (còn gọi là “tinh dầu” mù – tạc). Đây là chất lỏng dạng dầu, dễ bay hơi, không màu, gây chảy nước mắt, tạo ra allylthiourea với amoni hydroxide. Ngoài allyl isothiocyanate, hạt còn có crotonyl isothiocyanate.
(The Wealth of India I, 1948; Trung dược Từ Hải II, 1996; Trung dược đại từ điển I, 1997; Abrégé de matière médicale, 1981).
Cải canh dùng để muối dưa trong đó có protid, lipid, đường, cellulose, carotene, acid nicotinic, vitamin C, các nguyên tố Ca, P, Fe (Trung dược Từ Hải I, 1996).
Lá chứa 4-decanol có tính chất kháng đột biến (CA 121: 124.701r).
Lá còn có acid amin 8%, chủ yếu là acid glutamic và acid aspartic (CA 119: 137.967r).
3. Tác dụng dược lý
Cây cải canh – Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – Tập I – Đỗ Huy Bích cùng các tác giả khác (đã sửa chính tả):
Tác dụng kích thích: Chất sinigrin không có tác dụng kích thích, nhưng sau khi gặp nước dưới tác dụng của men myrosin (sẵn có trong hạt) cho tinh dầu mà thành phần chủ yếu là allyl isothiocyanate, chất này có tác dụng kích thích mạnh. Dùng trực tiếp trên da gây cảm giác nóng, làm cho da đỏ, gây phồng rộp da, phồng mụn nước. Thông thường, bột hạt cải được loại bỏ thành phần dầu béo, chế thành cao dán dùng ngoài làm thuốc kích thích cục bộ. Còn trong thực phẩm, bột hạt cải canh được chế thành mù tạc dùng làm chất điều vị. Với liều vừa phải, mù tạc có tác dụng tăng cường sự phân tiết dịch vị và hoạt tính của men amylase, làm giảm nhịp tim và có tác dụng chống nấc. Liều lớn mù tạc lại kích thích mạnh dạ dày – ruột, gây nôn mửa.
Các tác dụng khác: Thí nghiệm trên chuột lang, cho chuột chế độ ăn có hạt cải canh thì xuất hiện tác dụng ức chế tuyến giáp trạng và làm cho SCN trong máu tăng cao. Cũng có báo cáo cho rằng động vật dưới nước dài ngày bằng hạt cải canh thì tuyến giáp trạng phình to có thể là do thyrotropin phân tiết quá nhiều. Trên thỏ tiêm tĩnh mạch dịch ngâm hạt cải canh, ban đầu xuất hiện huyết áp tăng nhẹ, sau đó hạ thấp đồng thời tăng biên độ hô hấp. Cho chuột cống ăn lá cải canh thấy có tác dụng hạ đường huyết, nồng độ glycogen ở gan tăng.
Độc tính: Dầu hạt cải canh hoặc cao dán của hạt dùng trực tiếp với da, nếu để thời gian quá dài hoặc dùng nồng độ quá cao thì gây phồng mụn nước thậm chí mụn mủ và ngay lúc đó ngừng dùng thuốc thì mụn mủ vẫn lành rất chậm vì khi đó dầu hạt cải đã ngấm qua da và tác dụng của thuốc vẫn tiếp tục. Đối với niêm mạc, dầu hạt cải canh kích thích rất mạnh, dùng dung dịch 15% nhỏ vào mắt thỏ, thì lập tức niêm mạc bị sưng phù.

Công dụng và liều dùng cải canh
Hạt cải canh có vị cay, tính nóng, vào kinh thủ thái âm, có tác dụng ôn trung tán hàn, lợi khí, hóa đờm thông kinh lạc, tiêu thũng độc. Thân và lá cải canh có tác dụng tuyên phế hóa đờm, ôn trung lợi khí.
Ở Việt Nam, cải canh được trồng làm rau ăn, nấu canh hoặc muối dưa. Hiện nay, ta chưa thu hoạch hạt cải canh để dùng làm thuốc và ép dầu, nên vẫn phải nhập vị giới tử của Trung Quốc. Hạt lấy ở những quả chín, phơi hay sấy khô ở nhiệt độ dưới 50℃ để bảo vệ hoạt tính của men có trong hạt. Hạt cải canh được dùng làm thuốc chữa ho, viêm khí phế quản, làm ra mồ hôi. Liều 3 – 6g dưới dạng thuốc sắc hoặc thuốc bột. Trên lâm sàng dùng dịch tiêm từ hạt cải 10% hoặc 20% tiêm vào các huyệt trong điều trị viêm phế quản mạn tính có tác dụng cắt cơn hen khá tốt. Dùng ngoài, dạng cao dán của hạt cải canh gây đỏ da và kích thích da tại chỗ, để chữa đau dây thần kinh, thấp khớp. Khi dùng cao dán, tẩm thêm một ít nước để tăng cường tác dụng của men. Do có tác dụng kích thích mạnh, nên thời gian dán cao không quá 15 – 20 phút, ở những người có da mẫn cảm, chỉ nên dán cao trong vòng 5 – 10 phút.
Ở Trung Quốc, giới tử còn được dùng chữa chứng dạ dày lạnh đau, nôn ra thức ăn, đau quặn bụng, phổi lạnh, họ lưu đờm, đau họng, lao hạch, đau khớp. Ngoài ra, dầu béo ép từ hát cải sau khi tinh luyện được dùng làm dầu ăn và sản xuất xà phòng.
Ở Trung Quốc, ngoài cây Brassica juncea (L.) Czern. người ta còn dùng cây Brassica nigra (L.) W.D.J.Koch cho vị hắc giới tử và cây Brassica alba (L.) Rabenh. cho vị bạch giới tử có cùng công dụng như giới tử.
Ở Lào, Campuchia, hạt cải canh phối hợp với gạo tẻ, mật ong và đường mía được dùng chữa kiết lỵ, phân có máu mũi. Dầu hạt cải bôi chữa bệnh ngoài da.
Bài thuốc có cải canh:
Chữa lao hạch: Hạt cải canh nghiền thành bột trộn với hành đã giã nát, 2 vị lượng bằng nhau, đắp tại chỗ, mỗi ngày thay một lần.
Chữa dạ dày lạnh đau, nôn ra thức ăn: Bột hạt cải canh 3,5g uống với rượu hâm nóng. Ngày 2 lần.
Chữa đơn độc sưng tấy: Hạt cải canh giã nhỏ, trộn với giấm chế thành cao dán đắp ngoài.
Chữa đau khớp: Hạt cải canh nghiền thành bột, cho thêm bột mì trộn đều, đắp vào chỗ đau đến khi có cảm giác tê là được.
Cách trồng cải canh
Cây cải canh – Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – Tập I – Đỗ Huy Bích cùng các tác giả khác (đã sửa chính tả):
Cải canh là cây rau ngắn ngày, gieo bằng hạt. Vụ đông xuân, gieo từ tháng 8 đến tháng 11. Có thể để liền chân hay nhổ cấy sau khi gieo 20 – 25 ngày. Vụ xuân hè gieo từ tháng 2 đến tháng 6, thường để liền chân, thu hoạch sau 35 – 40 ngày.
Đất gieo hạt cần làm nhỏ, lên luống rộng 1 – 1,2m, cao 15 – 20cm, bón lót 300 – 400kg phân chuồng hoai + tro bếp cho 1 sào Bắc Bộ. Bón nông, tròn đều trên mặt luống. Lượng hạt gieo 1 – 2 g/m2. Khi cây được 2 – 3 lá thật, tỉa dần cho đến khi đạt khoảng cách cây 15 x 15cm. Nêu nhổ trồng sau 20 – 25 ngày thì trồng với khoảng cách 20 x 20cm. Cần thường xuyên tưới đủ nước, bón thúc bằng nước phân chuồng, nước giải hoặc đạm pha loãng.
Địa chỉ bán cây giống cải canh uy tín chất lượng ?
Địa chỉ: Ngách 68/45, ngõ 68, đường Nguyễn Văn Linh, phường Long Biên, thành phố Hà Nội.
- Quý khách xin vui lòng liên hệ với Cây cảnh Hải Đăng để được các chuyên viên của chúng tôi tư vấn lựa chọn sản phẩm cây giống cải canh phù hợp.
- Chúng tôi sẽ chụp ảnh sản phẩm cho quý khách nếu có yêu cầu.
- Chúng tôi sẽ kiểm tra kỹ hàng hóa đảm bảo chất lượng và đúng quy cách trước khi giao.
- Quý khách ở xa vui lòng tiến hành chuyển khoản trước hoặc đặt cọc trước. Nếu quý khách ở nội thành có thể áp dụng ship nhanh với chi phí 50k một lần ship.
Tài liệu tham khảo
- Cây cải canh – Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – Tập I – Đỗ Huy Bích cùng các tác giả khác.
- Cây cải canh – Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi.








