Độ hoàn thiện nội dung: 70%.
Báng hay đác, đoát, co pảng, quang lang, bụng báng, búng báng, báng búng, tà vạt, rượu trời, dừa núi), tên tiếng Anh là sugar palm, areng palm, aren palm, arengga palm, black sugar palm, kaong palm (danh pháp khoa học là Arenga pinnata (Wurmb) Merr.), là một loài thực vật có hoa thuộc họ Cau Arecaceae.








Mô tả cây búng báng
Cây búng báng – Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – Tập I – Đỗ Huy Bích cùng các tác giả khác (đã sửa chính tả):
Cây thân trụ, cao 5 – 7m, có khi đến 10m. Thân thẳng có nhiều cuống (do lá rụng để lại) xếp dày đặc. Lá thường mọc tập trung ở ngọn thân, dạng lông chim gồm rất nhiều lá chét hình mác, gốc lệch kéo dài thành tai ôm lấy cuống lá, mặt trên màu lục sẫm, mặt dưới màu vàng nhạt.
Cụm hoa to mọc ở kẽ lá thành bông mo phân nhánh nhiều, dài đến 1m, rủ xuống; hoa đực có khoảng 70 – 80 nhị; hoa cái có 3 lá đài. Quả hình cầu, màu vàng nâu nhạt, lõm ở đầu, có 3 hạt, hình trứng, hơi có cạnh, màu xám nâu
Thông tin thêm
1. Phân bố, thu hái và chế biến
Cây búng báng – Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – Tập I – Đỗ Huy Bích cùng các tác giả khác (đã sửa chính tả):
Arenga Labill. ex DC. có 22 loài, phân bố khắp vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới, từ Ấn Độ đến Trung Quốc, Đài Loan; về phía nam các nước ở bán đảo Đông Dương, khu vực Đông Nam Á, một số đảo ở Thái Bình Dương và miền Đông Australia. Cây búng báng có nguồn gốc ở vùng Nam hoặc Đông Nam Á, song hiện nay chưa rõ cụ thể ở khu vực nào. Cây phân bố rộng rãi ở Nam Trung Quốc (tỉnh Vân Nam và Quảng Tây), Việt Nam, Lào, Campuchia, Thái Lan, Myanmar, Malaysia, Philippines và Indonesia. Cây còn có ở phía đông Himalaya, đảo Ryukyu thuộc Nhật Bản và cả ở châu Phi (W.T M Smits, 1996 in PROSEA No9).
Ở Việt Nam, búng báng là loài cây quen thuộc đối với người dân ở tất cả các tỉnh miền núi. Ở đâu còn quần hệ rừng kín thường xanh ẩm nguyên sinh hay mới trở nên thứ sinh (do khai thác), thì ở đó, có thể tìm thấy cây búng báng. Tuy nhiên, búng báng thường mọc tương đối tập trung trong các loại hình rừng ẩm trên núi đá vôi hay đá sa phiến, ở các tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Vĩnh Phúc (Tam Đảo), Lào Cai, Yên Bái, Sơn La, Hòa Bình, Thanh Hóa, Hà Tĩnh, các tỉnh ở Tây Nguyên và đông Tây Nguyên. Búng báng là một trong số ít các loài trong họ Cau – Dừa có kích thước lớn. Một cây trưởng thành có thể chiếm giữ diện tích (tính theo đường kính tán lá) đến 20m. Cây ưa ẩm, ưa sáng và có thể chịu được bóng nhất là thời kỳ cây còn nhỏ, mọc dưới tán rừng. Cây sinh trưởng gần như quanh năm, nhưng mỗi năm chỉ mọc 3 – 6 lá. Cây mọc từ hạt phải sau 5 – 6 năm mới ra hoa quả lúc đầu; hoa đực và hoa cái riêng, nên sự thụ phấn phải nhờ côn trùng hoặc gió. Búng báng mọc tự nhiên ra hoa quả không đều, chu kỳ này có thế kéo dài 2 – 3 năm. Vào tháng 8 năm 1999, chúng tôi đã thu được 2 buồng quả ở 2 cây gần nhau tại vùng rừng Hương Sơn – Hà Tĩnh. Ở cây có buồng quả già là của năm trước, không thấy hoa hoặc quả non, buồng quả non của cây bên cạnh được xác định mới ra năm 1999. Mỗi buồng có hơn 1000 quả, lúc tươi nặng khoảng 50kg. Hiện nay cả 2 buồng quả búng báng này đang được lưu trữ ở Phòng Tiêu bản khoa tài nguyên Viện Dược Liệu.
Búng báng có rất nhiều quà và hạt, song trong tự nhiên lương cây con mọc từ hạt rất ít. Điều đó có thể do quả có dạng hình cầu, dẻ bị mưa lũ cuốn trôi.
Búng báng là cây có nhiều lợi ích. Tinh bột của thân cây được dùng như một loại ngũ cốc, có thể sử dụng để nấu cháo, nấu chè, làm bánh, cho lên men để nấu rượu hoặc làm ra đường. Phần búp và lá non còn là loại rau xanh quý. Cộng đồng các dân tộc ở miền núi Việt Nam thường có ý thức bảo vệ và không chặt phá bừa bãi loại cây có ích này.
2. Thành phần hoá học
Cây búng báng – Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – Tập I – Đỗ Huy Bích cùng các tác giả khác (đã sửa chính tả):
Cuống quả búng báng chứa chất lỏng dạng siro, chất này chứa nhiều đường và dễ lên men. Phần siro chưa lên men có thể đun và để nguội để tạo ra đường. Phần siro lên men được dùng chế rượu mạnh. Phần đã lên men để sản xuất giấm.
Theo Milsum và Dennet, 1929, 100ml dịch tiết ra với tỷ trọng 1,0315 chứa saccharose 7,10g; đường đã chuyển hóa 0,15g; chất không đường 0,29g; N 0,005g; tro 0,021g. Tỷ lệ đường/đường chuyển hóa cao và hiệu suất dịch tiết ra lớn. Có thể cô đặc dịch đường dưới áp lực giảm (The Wealth of India I, 1948)
Thân cây chứa nhiều tinh bột gọi là bột báng. Một cây có thể cho 20 – 100kg tinh bột (Đỗ Tất Lợi, 1999).
Theo Tomomatsu Atsunobu và cs, 1996, dich tiết ra đem ủ bằng vi sinh vật sẽ thu được glucose, fructose và ít oligosaccharide. Ngoài ra, còn có acid malic. Nếu ủ ở 30oC trong 16 giờ, tỷ lệ đường khử đường toàn phần tăng lên từ 12,5 đến 90,1% (CA. 126: 169074c).
Thân và quả búng báng chứa protease bền vững với kiềm, Et OH (75%), Na2S4O6 (5 x 103 M), DFP (103 M) và PMSF (103 M). Quá trình chiết gồm các động tác tủa dịch chiết, làm khô, điều chỉnh pH và sắc ký (CA. 119: 44.268y).
3. Tác dụng dược lý
Cây búng báng – Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – Tập I – Đỗ Huy Bích cùng các tác giả khác (đã sửa chính tả):
Theo tài liệu nước ngoài, dịch ép từ thịt quả búng báng có tác dụng kích thích cục bộ, ăn mòn da, cho tiếp xúc trực tiếp với da gây phản ứng viêm và cảm giác đau. Dịch ép này có tác dụng độc đối với cá.
Công dụng và liều dùng búng báng
Trong y học cổ truyền, bột búng báng có vị ngọt, tính bình, có tác dụng bổ dưỡng đối với cơ thể, làm mạnh sức, nhẹ mình, bồi bổ hư tổn suy yếu. Quả búng báng có vị đắng, tính bình, có tác dụng làm tan máu ứ. Thân cây có tác dụng thanh nhiệt, lợi tiểu.
Ở Việt Nam, cây búng báng đã được nhân dân sử dụng từ thời Hùng Vương để lấy bột ăn thay cơm (Lĩnh nam chích quái). Khi cây ra hoa, người ta lấy phần ruột của thân giã nhỏ, lọc thì được một thứ tinh bột màu bóng nhạt, phơi hay sấy khô. Ngoài ra, khi cây bắt đầu có quả, người ta rạch bông mo hoa đực lấy được một thứ dịch rất ngọt chảy ra, cứ 100g dịch này có khoảng 7,1g đường saccharose, 0,005g chất đạm và 0,021g tro. Trung bình mỗi ngày mỗi cây cho 3,5 lít dịch nước ngọt. Đem dịch này cô đặc dưới áp suất giảm thì được saccharose kết tinh; hoặc cho lên men để sản xuất rượu. Ở Malaysia, búng báng được coi là một loài cọ dừa chủ yếu cho đường.
Nhân hạt búng báng luộc chín có thể ăn được. Sợi xơ ở bẹ lá còn lại trên thân cây khi gặp nước không bị hủy hoại nên dùng làm chỉ khâu nón lá hoặc bện dây thừng
Trong y học, búng báng dược dùng làm thuốc bồi dưỡng cơ thể, dùng lâu ngày thì lưng gối đỡ yếu mỏi và có thể nhịn đói được lâu hơn. Quả búng báng sắc uống chữa đau nhức, thân cây (30 – 50g) dưới dạng nước sắc là thuốc hạ sốt lợi tiểu.
Ghi chú: Có tài liệu cho răng thịt quả búng báng có độc. Ở Hải Nam Trung Quốc, có người ăn quả chưa qua xử lý gia công bị ngộ độc với các triệu chứng đau đầu, nôn mửa, có cảm giác như say rượu. Các biện pháp cấp cứu, lúc mới ngô độc, tiến hành rửa dạ dày, sau đó uống lòng trắng trứng hoặc hồ bột, nếu ngộ độc đã lâu có nôn mửa nhiều thì uống cồn thuốc belladon hoặc tiêm atropin, uống nước đường hoặc tiêm dung dịch glucose 25 – 50%, có thêm vitamin C.
Địa chỉ bán cây giống đác uy tín chất lượng ?
Địa chỉ: Ngách 68/45, ngõ 68, đường Nguyễn Văn Linh, phường Long Biên, thành phố Hà Nội.
- Quý khách xin vui lòng liên hệ với Cây cảnh Hải Đăng để được các chuyên viên của chúng tôi tư vấn lựa chọn sản phẩm cây giống đác phù hợp.
- Chúng tôi sẽ chụp ảnh sản phẩm cho quý khách nếu có yêu cầu.
- Chúng tôi sẽ kiểm tra kỹ hàng hóa đảm bảo chất lượng và đúng quy cách trước khi giao.
- Quý khách ở xa vui lòng tiến hành chuyển khoản trước hoặc đặt cọc trước. Nếu quý khách ở nội thành có thể áp dụng ship nhanh với chi phí 50k một lần ship.