Ảnh tham khảo

Vielblütiger Knöterich (Polygonum multiflorum). Tác giả: Fanghong. Ngày tạo: Ngày 13, tháng 9, năm 2005. Nguồn: Wikipedia Common.

Phía bên trái bức ảnh, cây leo thuận tay trái (S-twist) chính là loài Polygonum multiflorum var. hypoleucum 台灣何首烏. Và bên phải là 2 cây leo thuận tay phải (Z-twist); một là loài Dioscorea polystachya (Chinese yam 山藥), và hai là loài Mikania micrantha 小花蔓澤蘭. Tất cả các cây leo trên đang quấn quanh thân của loài Prunus campanulata 山櫻花. Tác giả: Jidanni. Ngày tạo: Ngày 26, tháng 7, năm 2020. Nguồn: Wikipedia Common.

Loài rệp vảy 介殼蟲 được mang đi bởi loài kiến Dolichoderus thoracicus 琉璃胸螞蟻 ngay trên thân cây Polygonum multiflorum var. hypoleucum (Ohwi) Liu, Ying & Lai 灣何首烏, vốn đang quấn quanh thân cây tre Dendrocalamus latiflorus ở khu vực đồi miền trung Đài Loan, độ cao 790 mét. Tác giả: Jidanni. Ngày tạo: Ngày 4, tháng 5, năm 2020. Nguồn: Wikipedia Common.

Rễ cây Fallopia multiflora (syn. Polygonum multiflorum) phơi khô. Ảnh chụp ở Kent, Ohio bằng máy ảnh kỹ thuật số Panasonic Lumix (model DMC-LS75). Tác giả: Badagnani. Ngày tạo: Ngày 6, tháng 2, năm 2008. Nguồn: Wikipedia Common.
Độ hoàn thiện nội dung: 70%.
Hà thủ ô đỏ hay giao đẳng, dạ hợp, … tên tiếng Anh là tuber fleeceflower, Chinese (climbing) knotweed, … (danh pháp khoa học là Reynoutria multiflora (Thunb.) Moldenke; đồng nghĩa: Polygonum multiflorum Thunb.), là một loài thực vật có hoa thuộc họ Rau răm Polygonaceae trong bộ Cẩm chướng Caryophyllales. Loài cây này được sử dụng chủ yếu để làm thuốc.
Hà thủ ô đỏ (Radix Polygoni multiflori) là rễ củ phơi khô của cây hà thủ ô.
Mô tả cây hà thủ ô đỏ
Cây hà thủ ô đỏ – Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – Tập I – Đỗ Huy Bích cùng các tác giả khác (đã sửa chính tả):
Dây leo bằng thân quấn, sống lâu năm. Thân mềm, nhẵn, mọc xoắn vào nhau. Rễ phình thành củ, màu nâu đỏ, củ nguyên có hình giống củ khoai lang. Lá mọc so le, hình mũi tên, gốc hình tim, đầu thuôn nhọn, dài 5 – 8cm, rộng 3 – 4cm, 3 – 5 gân xuất phát từ gốc lá, hai mặt nhẵn, mặt trên sẫm bóng, cuống dài khoảng 2cm, phủ lông tơ, bẹ chìa mỏng, ngắn, có lông dài.
Cụm hoa mọc ở kẽ lá hoặc đầu cành thành chuỳ phân nhánh, dài hơn lá, lá bắc ngắn; hoa nhỏ nhiều, màu trắng; nhị 8, thường dính vào gốc của bao hoa. Quả hình 3 cạnh, nhẵn bóng, nằm trong bao hoa mà 3 mảnh ngoài phát triển thành những cánh rộng. Mùa hoa: tháng 9 – 11; mùa quả: tháng 12 – 2.
Sản phẩm mới: Kim ngân hoa
Một số thông tin khác
1. Phân bố và sinh thái
Cây hà thủ ô đỏ – Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – Tập I – Đỗ Huy Bích cùng các tác giả khác (đã sửa chính tả):
Chi Fallopia Adans. gồm các loài là cây thân cỏ và dây leo nhỏ, phân bố rộng rãi ở vùng cận nhiệt đới và nhiệt đới. Ở Việt Nam, có 1 loài là cây hà thủ ô đỏ. Trên thế giới, hà thủ ô đỏ có ở Trung Quốc, bắc Lào, Nhật Bản và Ấn Độ. Ở Việt Nam, hà thủ ô đỏ chỉ có ở một số tỉnh vùng núi cao (trên 1000m) phía bắc. Cây mọc nhiều ở Hà Giang, Lai Châu, Lào Cai, Sơn La. Các tỉnh khác gặp ít hơn như Hòa Bình (Mai Châu, Đà Bắc); Thanh Hóa (Son Bá Mười); Nghệ An (Kỳ Sơn); Lạng Sơn (núi Mẫu Sơn); Cao Bằng (Bảo Lạc); Yên Bái (Mù Cang Chải) …
Hà thủ ô đỏ là loại cây ưa khí hậu ẩm mát của vùng cận nhiệt đới và nhiệt đới núi cao. Cây ưa sáng và có thể hơi chịu bóng. Nơi mọc tự nhiên thích hợp nhất là các quần hệ rừng núi đá vôi, độ cao tới 1700m; nhiệt độ không khí trung bình năm khoảng dưới 20oC. Hà thủ ô đỏ thường mọc ở đất ẩm, xốp, nhiều mùn, nhất là loại đất ở chân núi đá. Tuy nhiên, khi cây được trồng ở đất đồi vùng trung du (Trạm nghiên cứu dược liệu Vĩnh Phú cũ) hay trên đất đỏ bazan (Trại Cải tạo Đắk Trung – Đắk Lắk), đều phát triển tốt.
Hà thủ ô đỏ ra hoa quả nhiều hằng năm. Sau khi quả già, phần thân leo trên mặt đất tàn lụi, hạt giống phát tán ra xung quanh và sẽ nảy mầm vào mùa xuân – hè năm sau. Hà thủ ô đỏ có khả năng tái sinh vô tính khỏe. Từ một đoạn dây đem vùi xuống đất hoặc các củ con, cùng với các đoạn rễ còn sót lại trong khi khai thác, đều có khả năng mọc thành cây mới
Nguồn dược liệu hà thủ ô đỏ ở Việt Nam trước đây khá dồi dào. Qua hàng chục năm khai thác liên tục và bị tàn phá do nạn phá rừng làm nương rẫy, vùng phần bố tự nhiên của cây dần dần bị thu hẹp. Theo kết quả điều tra gần đây của Viện Dược liệu (1997 – 1999), hà thủ ô đỏ còn có thể tiếp tục khai thác ở một số huyện thuộc tỉnh Hà Giang (Quản Bạ, Đồng Văn, Mèo Vạc); Lai Châu (Sìn Hồ, Tủa Chùa); Lào Cai (Than Uyên) … ước tính mỗi năm vài chục tấn. Hà thủ ô đỏ đã được đưa vào Sách Đỏ Việt Nam (1996) để bảo vệ.
Xem thêm: Ba kích tím

2. Thành phần hóa học
Hà thủ ô đỏ – Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi (đã sửa chính tả):
Hà thủ ô đã được hai nhà nghiên cứu Nhật Bản nghiên cứu từ năm 1923 (Nhật Bản dược học tạp chí, 42: 144, 1923). Theo các tác giả, hà thủ ô của Tứ Xuyên, Trung Quốc có các chất sau đây:
Các chất anthraglucoside với tỷ lệ 1,7 % trong đó chủ yếu là chrysophanol, emodin và rhein. Ngoài ra còn có chất đạm 1,1%; tinh bột 45,2%; chất béo 3,10%; chất vô cơ4,5 %; các chất tan trong nước 26,40%; lecithin.
Lecithin thường được dùng trong những trường hợp thiếu dinh dưỡng, thần kinh suy nhược.
Các anthraglucoside có tác dụng làm tăng sự bài tiết của dịch tràng, xúc tiến sự co bóp của ruột giúp cho sự tiêu hóa và cải thiện dinh dưỡng.
Cây hà thủ ô đỏ – Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – Tập I – Đỗ Huy Bích cùng các tác giả khác (đã sửa chính tả):
Hà thủ ô đỏ chứa 1,7% anthraglycoside trong đó có chrysophanol; emodin; rhein; 1,1% protid; 42,2% tinh bột; 3,1% lipid; 4,5% chất vô cơ; 26,4% chất tan trong nước …
Thành phần hóa học của hà thủ ô đỏ thay đổi trong quá trình chế biến. Theo y học cổ truyền, hà thủ ô đỏ sống chứa 7,68% tanin; 0,259% dẫn chất anthraquinone tự do; 0,805% dẫn chất anthraquinone toàn phần. Sau khi chế biến, dược liệu chứa 3,82% tanin; 0,113% dẫn chất anthraquinone tự do; 0,25% dẫn chất anthraquinone toàn phần.
Theo nhiều tài liệu nghiên cứu, hà thủ ô đỏ chứa emodin (1); physcion (2); emodin-1,6-dumethyl ether (3); questin (4); citreorosein (5); questinol (6); 2-acetyl-emodin (7); emodin γ-O-β-glucoside (8); physcion-8-O-β-D-glucoside (9); 2-methoxy-6-acetyl-7-methyl juglone; tricine; N-trans-feruloyltyramine; N-trans-feruloyl-3-methyldopamine; 2,3,5,4′-tetrahydroxystilbene-2-O-β-D-glucoside (10); 2″-O-monogalloyl este của 2,3,5,4′-tetrahydroxystilbene-2-O-β-D-glucoside; 3″-O-monogalloyl este của 2,3,5,4′-tetrahydroxystilbene-2-O-β-D-glucoside. Ngoài ra, con acid gallic; daucosterol; (+)-catechin; (+)-epicatechin; 3-O-galloyl-(-)-catechin; 3-O-galloyl-(-)-epicatechin; galloyl-procyanidin-2,3,4,6-trihydroxyacetophenone (polygo aceto phenoxide) (12); 1,3-dihydroxy-6,7-dimethylxanthon-1-O-β-D-glucoside (11); quercetin-3-O-galactoside; quercetin-3-O-arabinoside (TDTH II. 304, 311; CA. 121, 1994, 104075m; CA. 119, 1993, 91252y; СA. 121, 1994, 41828c; CA. 122, 1995, 230401y …).
Chất phospholipid có 3,49% trong dược liệu thô và 1,82% trong dược liệu đã chế biến (CA . 116, 1992, 136351m), hợp chất 2,3,5,4′-tetrahydroxystilbene-2-O-β-D-glucoside có trong thành phần của thuốc làm mọc tóc (CA. 114, 1991, 171037u).

5. Tác dụng dược lý
Hà thủ ô đỏ – Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi (đã sửa chính tả):
Mẫn Bính Kỳ đã báo cáo trong Nhật dược chí (11-1-1950) về tác dụng dược lý của Hà thủ ô như sau:
– Cho thỏ uống nước sắc hà thủ ô rồi theo dõi ảnh hưởng đối với lượng đường trong máu thì thấy sau khi uống 30 phút đến 60 phút, lượng đường trong máu tăng tới mức cao nhất, sau đó giảm dần, 6 giờ sau khi uống thuốc, lượng đường trong máu so với mức bình thường thấp hơn 0,03 %.
– Lecithin là thành phần chủ yếu của thần kinh hệ cho nên hà thủ ô có thể dùng trong những trường hợp suy nhược thần kinh và bệnh về thần kinh. Lecithin còn giúp sự sinh ra huyết dịch và bổ tim.
Dung dịch lecithin pha loãng 1/10.000 đến 1/200.000 có tác dụng làm mạnh tim cô lập, nếu tim đã yếu mệt thì tác dụng lại càng rõ rệt hơn. Lecithin là một nguồn photpho dễ hấp thụ và giúp chi hiện tượng chuyển hóa chung được cải thiện.
– Do thành phần anthraglucoside, hà thủ ô có tác dụng làm xúc tiến sự co bóp của ruột, xúc tiến sự tiêu hóa, cải thiện dinh dưỡng.
Cây hà thủ ô đỏ – Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – Tập I – Đỗ Huy Bích cùng các tác giả khác (đã sửa chính tả):
Hà thủ ô đỏ có những tác dụng dược lý như: Làm tăng đường máu ở thỏ; do chứa lecithin, nên có thể dùng trong suy nhược thần kinh và bệnh về thần kinh, giúp sinh huyết dịch, bổ tim, giúp cải thiện chuyển hóa chung; do chứa anthraglycoside nên kích thích co bóp ruột, kích thích tiêu hóa, cải thiện dinh dưỡng.
Hà thủ ô đỏ có tác dụng nội tiết kiểu oestrogen, tác dụng liều progesterone nhẹ trên nội mạc tử cung, làm tăng trương lực cơ tử cung trong những thí nghiệm tử cung cô lập và ở nguyên vị trí, tăng tiết sữa và chống viêm.
Hà thủ ô đỏ có tác dụng năng cao tỷ lệ sống hoặc kéo dài thời gian cầm cự đối với động vật đã tiêm liều độc nọc rắn hổ mang và tác dụng ức chế sự co thắt cơ trơn ruột cô lập gây bởi histamin và acetylcholin. Hà thủ ô đỏ có tác dụng chống co thắt phế quản, kéo dài thời gian an toàn trong mô hình khí dung histamin.
Hà thủ ô đỏ có tác dụng chống viêm trên các mô hình thực nghiệm, gây phù cấp tính và viêm mạn tính, gây rỉ dịch màng phổi bằng tinh dầu thông, gây viêm dị ứng và viêm đa khớp hằng BCG.
Bài thuốc Lục vị tân phương trong có hà thủ ô đỏ và một số vị khác đã được thử dược lý và thấy có độc tính rất thấp, có tác dụng tăng số lượng hồng cầu, lợi tiểu, nhuận tràng và làm giảm sự hoạt động của động vật thí nghiệm. Trên lâm sàng, thuốc làm bệnh nhân hết mệt mỏi, ăn ngon, ngủ được, đại tiểu tiện dễ dàng, giảm cảm giác nóng bức và tăng cân.
Một đơn thuốc trong có hà thủ ô đỏ và một số vị khác đã được dùng điều trị 136 bệnh nhân viêm hắc võng mạc trung tâm thanh dịch đạt hiệu quả làm tăng thị lực tốt.
Chế phẩm Ramazona bào chế từ phương thuốc Phù tang thế bảo của Tuệ Tĩnh, gồm rau má thìa, ngưu tất, ba kích, hà thủ ô đỏ đã được điều trị trên những bệnh nhân lớn tuổi và thấy thuốc có tác dụng tốt giúp nâng cao thể trạng và làm tâm thần sảng khoái, tăng protid máu, làm thay đổi tỷ lệ A/G theo chiều thuận lợi, giữ huyết áp ổn định ở người huyết áp cao. Không nên dùng cho người có rối loạn tiêu hóa.
Dịch chiết với nước ấm của hà thủ ô chế thử nghiệm trên những chuột đã cắt bỏ tuyến thượng thận, làm tăng tích lũy glycogen ở gan gấp 6 lần. Hà thủ ô đỏ sống không có tác dụng này. Cao lỏng và những hợp chất anthraquinone của hà thủ ô có tác dụng tăng cường nhu động ruột, nhuận tràng. Nước sắc hà thủ ô 1/100 ức chế sự phát triển của trực khuẩn lao. Nước sắc hà thủ ô 1,5/1 gây hạ cholesterol máu trên động vật. Dịch chiết methanol của hà thủ ô đỏ có tác dụng ức chế sự tăng cholesterol máu ở chuột ăn thức ăn có lượng cao cholesterol. Các hợp chất stilbene trong hà thủ ô có tác dụng dự phòng tổn thương gan trên chuột cho ăn các lipid oxy hóa. Resveratrol (thành phần stilbene trong rễ hà thủ ô) có tác dụng kháng khuẩn và kháng nấm.
Những thành phần stilbene như resveratrol và piceid, phân lập từ rễ hà thủ ô đỏ, có tác dụng gây hạ lipid máu ở chuột cho ăn hỗn hợp dầu ngô, cholesterol và acid cholic.
Ảnh hưởng của những thành phần stilbene của hà thủ ô đỏ trên tổn thương gan gây ở chuột cống trắng bằng việc cho ăn dầu peroxy – hóa đã thể hiện ở chỗ piceid và 2,3,5,4′-tetrahydroxystilbene-2-O-β-D-glucoside có tác dụng ức chế một phần sự tích lũy các peroxyd lipid trong gan chuột. Những stilbene glycoside ức chế sự tăng GOT và GPT trong huyết thanh chuột. Ngoài ra, resveratrol, piceid và 2,3,5,4′-tetrahydroxystilbene-2-O-β-D-glucoside còn ức chế sự peroxy – hóa lipid gây bởi ADP (adenosine 5′-diphosphate) và NADPH (Nicotinamide adenine dinucleotide phosphate) ở những vi tiểu thể gan chuột.
Một bài thuốc gồm 10 vị, trong có hà thủ ô đỏ được nghiên cứu thực nghiệm và thấy cao cồn có tác dụng kích thích nang trứng.
Cao cồn hà thủ ô đỏ còn có tác dụng dự phòng xơ mỡ động mạch, gây thực nghiệm theo cơ chế ngoại sinh trên chim cun cút. Tác dụng làm giảm cholesterol và triglycerid huyết thanh, ức chế sự tăng lipid máu và làm chậm sự phát triển xơ mỡ động mạch.

Công dụng và liều dùng
Rễ củ hà thủ ô đỏ có vị đắng chát, hơi ngọt, tính ấm, có tác dụng bổ gan, thận, bổ máu, ích tinh tủy, hòa khí huyết, mạnh gân xương, nhuận tràng.
Rễ hà thủ ô đỏ có tác dụng bổ máu, chữa thận suy, gan yếu, thần kinh suy nhược, ngủ kém, sốt rét kinh niên, thiếu máu, đau lưng mỏi gối, di mộng tinh, khí hư, đại tiểu tiện ra máu, khô khát táo bón, da mẩn ngứa không có mủ. Uống lâu làm đen râu tóc đối với người bạc tóc sớm, làm tóc đỡ khô và đỡ rụng. Người có huyết áp thấp và đường huyết thấp không dùng hà thủ ô đỏ. Khi uống hà thủ ô đỏ, kiêng ăn hành, tỏi, cải củ. Ngày dùng 6 – 20g, dạng thuốc sắc, rượu thuốc hoặc bột.
Trong y học cổ truyền Trung Quốc, hà thủ ô sống tươi và khô có tác dụng thông tiểu, giải độc, tiêu ung thũng, chữa táo bón cho phụ nữ sau khi đẻ hoặc người già, mụn nhọt, ghẻ lở, eczema, tràng nhạc. Có thể phối hợp với hạ khô thảo, kim ngân hoa. Hà thủ ô chế có tác dụng bổ gan thận, ích tinh huyết, dùng làm thuốc an thần, bổ và tăng lực trong các chứng thân thể suy yếu, hoa mắt, chóng mặt, tim hồi hộp, nhức đầu, mất ngủ, suy nhược thần kinh, còi xương, bệnh tạng rỉ dịch và để hồi phục sức khỏe cho người già sau khi bị bệnh (phối hợp với sinh địa, bạch thược, cúc hoa), kích thích tạo hồng cầu và bạch cầu trong các bệnh về máu và thiếu máu. Còn dùng chữa đau mỏi chân tay, di tinh (phối hợp với đương quy, ngưu tất, kỷ tử, thỏ ty tử), chữa sốt rét lâu ngày, khí huyết suy nhược (phối hợp với nhân sâm, đương quy, trần bì), giải nhiệt và lợi tiểu và làm chất săn trong điều trị phối hợp chữa ỉa chảy. Dùng ngoài dạng thuốc mỡ chữa một số bệnh da. Liều dùng: ngày 10 – 20g.
Ở Ấn Độ, rễ hà thủ ô đỏ được dùng làm thuốc bổ, chống bệnh scorbut và làm đen tóc. Nó còn có tác dụng đối với bệnh tăng đường máu. Một chế phẩm của hà thủ ô đỏ được dùng cho phụ nữ sau khi đẻ.
Rễ hà thủ ô đỏ được dùng trong y học cổ truyền Trung Quốc và Nhật Bản để điều trị viêm da mủ, bệnh lậu, bệnh nấm favus ở chân, bệnh viêm và tăng lipid máu.
Bài thuốc có hà thủ ô đỏ:
Chữa phong lở ở đầu mắt, ngứa khắp mình (Hải Thượng Lãn Ông):
Bài thuốc ngâm rượu:
- Thành phần: Rễ gắm sao 120g, vỏ chân chim sao 100g, rễ rung rúc sao 80g, rễ cây bươm bướm sao 60g, rễ chiên chiến sao 60g, cây bấn đỏ sao 40g, cây bấn trắng sao 40g, quy bầu 40g, ô dược 40g, cỏ xước sao 40g, rễ bưởi bung sao 40g, rễ cỏ chỉ sao 80g, cỏ roi ngựa sao 24g, rễ cây chỉ thiên 24g, tang ký sinh 40g, hà thủ ô đỏ (9 lần đồ, 9 lần phơi) 60g.
- Cách chế: Tán nhỏ các vị thuốc, gói vào một túi vải và bỏ vào trong hũ rượu, trát đất kín miệng, nấu lên trong thời gian cháy hết một nén hương, rồi chôn xuống đất 3 ngày đêm. Uống dần ít một vào lúc đói.
Bài thuốc viên (dùng kết hợp với bài thuốc trên):
- Thành phần: Hà thủ ô đỏ 320g, cẩu tích 240g (tẩm rượu, nấu với nước muối, phơi khô), cốt toái bổ 160g (cạo lông, thái nhỏ, nấu với nước mặt, phơi khô), thạch hộc 160g (rửa với rượu, chưng kỹ, phơi khô), quán chúng 100g (phơi trong râm, bỏ lông và vỏ), hy thiêm 160g (chưng với rượu và mật), lá ké đầu ngựa 40g (phơi râm), rễ cỏ xước 160g (dùng tươi, rửa với rượu), vỏ chân chim sao 160g, rễ gắm sao 160g.
- Cách chế: Các vị trên tán bột luyện mát làm viên, uống mỗi lần 8 – 12g với nước gừng hay rượu.
Chữa đái rắt buốt, đái ra máu (Hải Thượng Lãn Ông):
- Lá hà thủ ô đỏ tươi, giã vắt lấy nước, hòa với mật uống.
- Lá hà thủ ô đỏ, lá huyết dụ, lượng bằng nhau. Sắc rồi hòa thêm mật uống.
Chữa tóc rụng và bạc sớm, hồi hộp, chóng mặt, ù tai, hoa mắt, đau mỏi lưng khớp, táo bón: Hà thủ ô chế, sinh địa, huyền sâm, mỗi vị 20g. Sắc
uống.
Chữa xơ cứng mạch máu người già, tăng huyết áp, nam giới chậm có con: Hà thủ ô đỏ 20g, tang ký sinh, kỷ tử, ngưu tất đen 16g. Sắc uống.
Chữa phong thấp đau lưng, viêm dây thần kinh hông, vận động khó khăn: Hà thủ ô đỏ, ngưu tất mỗi vị 30g, cẩu tích 16g, huyết giác 12g, thiên niên kiện 12g, bạch chỉ 6g. Sắc uống.
Thuốc bổ dùng cho người già yếu, thần kinh suy nhược, tiêu hoá kém: Hà thủ ô đỏ 10g, đại táo 5g, thanh bì 2g, trần bì 3g, sinh khương 3g, cam thảo 2g, nước 600ml. Sắc còn 200ml, chia 3 – 4 lần uống trong ngày.
Thuốc bổ khí huyết, mạnh gân cốt: Hà thủ ô trắng và hà thủ ô đỏ với lượng bằng nhau, ngâm nước vo gạo 3 đêm, sao khô tán nhỏ, luyện với mật làm viên to bằng hạt đậu xanh. Uống mỗi ngày 50 viên với rượu vào lúc đói.
Thất bảo mỹ nhiệm đơn, làm râu tóc trắng hóa đen, khỏe gân xương, bền tinh khí, sống lâu:
- Hà thủ ô đỏ và trắng, đã chế biến, mỗi thứ 600g, xích phục linh và bạch phục linh, mỗi vị 600g. Cạo bỏ vỏ, tán bột, khuấy với nước trong, lọc lấy bột lắng ở dưới, nắm lại, tẩm với sữa người, phơi khô.
- Ngưu tất 320g, tẩm rượu để một ngày, trộn với hà thủ ô và đồ với đỗ đen vào lần thứ 7, 8, 9 rồi phơi khô.
- Đương quy 320g tẩm rượu phơi khô.
- Câu kỷ tử 320g tẩm rượu phơi khô.
- Thỏ ty tử 320g tẩm rượu cho nứt ra, giã nát phơi khô.
- Bổ cốt chi 100g, trộn với vừng đen, sao cho bốc mùi thơm.
⇒ Tất cả giã nhỏ, trộn đều, thêm mật vào làm thành viên 0,5g. Ngày uống 3 lần, mỗi lần 50 viên. Sáng dùng rượu chiêu thuốc, trưa dùng nước gừng, tối dùng nước muối.
Chữa viêm hắc võng mạc trung tâm thanh dịch: Hà thủ ô đỏ 20g, thục địa 20g, trạch tả 12g, hoài sơn 12g, cúc hoa 8g, nấu với nước thành cao lỏng, uống.
Viên bổ Ngũ hà (chữa thiếu máu, mệt mỏi, tiêu hóa kém): Mỗi viên có cao ngũ gia bì 0,1g, bột mã tiền 0,01g, bột hà thủ ô đỏ 0,01g, bột oxalat 0,03g, mật ong 0,01 g.
Viên bổ hà thủ ô (chữa sốt rét, gầy yếu, ăn ngủ kém, đau xương, di tinh, bạch đới, trẻ em chậm đi, chậm mọc răng): Hà thủ ô đỏ 500g, sâm bố chính 300g, hạt sen 300g, cam thảo 100g, đại hồi 100g, thảo quả 100g. Ba vị hà thủ ô, hạt sen, sâm đồ chín. Cam thảo nướng vàng. Thảo quả bỏ vỏ, lấy nhân. Trộn chung sấy khô, tán nhỏ, ray bột mịn, luyện với mật ong làm viên bằng hạt đỗ đen. Trẻ em mỗi lần uống 6 – 15 viên (tuỳ tuổi) người lớn mỗi lần uống 20 viên.

Cách trồng hà thủ ô đỏ
Cây hà thủ ô đỏ – Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – Tập I – Đỗ Huy Bích cùng các tác giả khác (đã sửa chính tả):
Hà thủ ô đỏ được trồng chủ yếu ở các tỉnh trung du và miền núi phía bắc. Theo kinh nghiệm của nhân dân ở Sơn La, Vĩnh Phúc, Bắc Giang, hà thủ ô đỏ được trồng bằng củ có đường kính 3 – 5cm hoặc bằng dây bánh tẻ dài 30 – 40cm, không có sâu bệnh. Trồng bằng củ thì đặt củ theo hốc ở độ sâu 5 – 7cm, trồng bằng dây thì đánh rạch, đặt dây và lấp đất như cách trồng khoai lang, để 1/3 dây thò lên khỏi mặt đất. Củ và dây đều trồng với khoảng cách 30 – 35cm (nếu trồng 2 hàng thì khoảng cách 40 x 35cm), tưới và giữ ẩm cho tới khi cây mọc.
Đất đồi, gò, nương, các chân ruộng cao nhiều mùn, thoát nước, giữ ẩm rất tốt cho việc trồng hà thủ ô. Đất cần cày bừa, đập nhỏ, lên luống cao 25 – 30cm, rộng 40cm, nếu trồng một hàng hoặc 70 – 80cm nếu trồng 2 hàng. Là cây lấy củ, hà thủ ô đỏ cần được bón nhiều phân. Nên bón lót cho mỗi hecta 20 – 25 tấn phân chuồng, 200kg supe lân và 100kg kali.
Khi cây mọc, làm giàn cho dây leo. Dùng tre cắm chéo, cao 1,5 – 2m dọc theo luống. Hàng tháng làm cỏ, xới xáo cho đất tơi thoáng, kết hợp bón thúc. Tốt nhất là dùng nước phân chuồng, nước giải pha loãng. Nếu cần, có thể tưới đạm pha với nồng độ 2%, mỗi lần 25kg đạm/ha. Việc bón thúc tiến hành từ tháng 3 đến tháng 9 hàng năm, mỗi tháng thúc một lần.
Hà thủ ô ít bị sâu bệnh. Cần chú ý phòng trừ dế hại mầm non. Cây trồng sau 2 – 3 năm thì thu hoạch, để lâu quá, củ dễ bị thối. Năng suất trung bình đạt 1,5 – 2,5 tấn củ khô/ha.
Rễ củ, thu hái vào mùa thu, đào về rửa sạch đất, bỏ rễ con. Củ nhỏ, để nguyên, củ to bổ đôi hoặc bổ tư, phơi hay sấy khô. Nếu đồ chín rồi phơi khô thì tốt hơn. Loại nguyên củ của hà thủ ô đỏ có hình dáng hơi giống củ khoai, mặt ngoài có những chỗ lồi lõm đặc biệt, màu nâu đỏ. Hà thủ ô đỏ có thể chế biến như sau: Rễ củ được rửa sạch, ngâm nước vo gạo trong 24 giờ, rửa nước lại một lần nữa. Cho dươc liệu vào nồi, rồi cho nước đỗ đen đến ngập với tỷ lệ 1kg dược liệu và 100g đỗ đen và 2 lít nước. Nấu đến khi gần cạn, đảo luôn cho thuốc chín đều. Khi rễ củ đã mềm, lấy ra bỏ lõi. Nếu còn nước đậu đen thì tẩm phơi cho hết. Đồ phơi như vậy được chín lần là tốt (cửu chưng, cửu sái). Khi dùng thái lát hoặc bào thành phiến mỏng.
Dược điển đông y Trung Quốc 1963 lại quy định thái hà thủ ô đỏ trộn với nước đậu đen và rượu cho vào thùng, đậy kín. Đun cách thủy cho đến khi rễ củ hút hết nước tẩm, phơi khô.
Địa chỉ bán hà thủ ô đỏ tại Hà Nội uy tín ?
Địa chỉ: Ngách 68/45, ngõ 68, đường Nguyễn Văn Linh, phường Long Biên, thành phố Hà Nội.
- Quý khách xin vui lòng liên hệ với Cây cảnh Hải Đăng để được các chuyên viên của chúng tôi tư vấn lựa chọn sản phẩm cây hà thủ ô đỏ phù hợp.
- Chúng tôi sẽ chụp ảnh sản phẩm cho quý khách nếu có yêu cầu.
- Chúng tôi sẽ kiểm tra kỹ hàng hóa đảm bảo chất lượng và đúng quy cách trước khi giao.
- Quý khách ở xa vui lòng tiến hành chuyển khoản trước hoặc đặt cọc trước. Nếu quý khách ở nội thành có thể áp dụng ship nhanh với chi phí 50k một lần ship.
Tài liệu tham khảo
- Hà thủ ô đỏ – Wikipedia tiếng Việt.
- Hà thủ ô đỏ – Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi.
- Cây hà thủ ô đỏ – Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – Tập I – Đỗ Huy Bích cùng các tác giả khác.
Sản phẩm liên quan: Cây vọng cách