Bộ sưu tập



Độ hoàn thiện nội dung: 70%.
Chùm ngây hay ba đậu dại, tên tiếng Anh là moringa, drumstick tree, horseradish tree, malunggay (danh pháp khoa học là Moringa oleifera Lam.) là loài thực vật thân gỗ vô cùng phổ biến trong Chi Chùm ngây Moringa thuộc họ Chùm ngây Moringaceae. Qua tìm hiểu, chùm ngây có xuất xứ từ vùng Nam Á nhưng cũng mọc hoang và được trồng, khai thác, sử dụng khá nhiều nơi trên thế giới do có giá trị kinh tế cao và năng suất vượt trội.
Horseradish tree (cây cải ngựa), chỉ phần rễ non của cây có vị của cây cải ngựa, mù tạt. Drumstick tree (cây dùi trống), chỉ phần thân/quả có hình dáng giống dùi trống. Ben-oil tree (cây dầu ben), do dầu ép từ hạt cây được bán với tên gọi là dầu ben (ben-oil).


Mô tả cây chùm ngây
Chùm ngây là cây rụng lá phát triển rất nhanh, có thể cao từ 10 – 12 mét và đường kính thân lên đến 46cm. Vỏ cây có màu xám trắng và được phủ bởi lớp bần dày. Chồi non có vỏ ngoài màu tím hoặc xanh nhạt, phủ lông mịn. Lá kép 3 lần lông chim lẻ dài 30 – 60cm, màu xanh mốc, lá chét con dài 12 – 20mm hình trứng, mọc đối từ 6 đến 9 đôi.
Hoa màu trắng kem, dài khoảng 1 – 1,5cm, rộng khoảng 2cm, có cuống, hình dạng thì giống hoa đậu nhưng đẹp hơn, mọc thành chùy ở nách lá, có lông tơ, nhiều mật. Hoa bắt đầu nở trong 6 tháng đầu sau khi trồng. Ở nơi có khí hậu mát mẻ theo mùa, cây chỉ nở hoa 1 lần/năm vào cuối xuân hoặc đầu hè (từ tháng 4 – 6 ở Bắc bán cầu, tháng 10 – 12 ở Nam bán cầu). Ở vùng có khí hậu ổn định và mưa đều, cây có thể nở 2 lần mỗi năm hoặc nở hoa quanh năm. Quả nang treo, dài 25 – 40cm, ngang 2 cm, có 3 cạnh. Chỗ có hạt thì hơi gồ lên, dọc theo quả có khía rãnh. Hạt màu đen, tròn có 3 cạnh, lớn cỡ hạt đậu Hà Lan. Mỗi hạt có 3 cánh mỏng màu trắng, giúp nó được gió thổi đi hoặc trôi theo nước. Khi trồng, người ta thường cắt cây xuống còn 1 – 2 mét mỗi năm, để các quả và lá luôn ở tầm với, thuận tiện cho việc thu hoạch.
Cây chùm ngây – Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – Tập I – Đỗ Huy Bích cùng các tác giả khác (đã sửa chính tả):
Cây nhỏ hay cây nhỡ, cao 5 – 10 m. Vỏ cây dày, có khía rãnh. Thân non có lông. Lá kép, mọc so le, 3 lần lông chim, dài 30 – 60cm, 6 – 9 đôi lá chét hình trứng, mọc đối. Cụm hoa mọc thành chùy ở kẽ lá; lá bắc hình chỉ; hoa màu trắng, hơi giống hoa họ Đậu; đài có 5 răng hình thuôn, uốn cong; tràng 5 cánh hình thìa; nhị 5, chỉ nhị có lông ở gốc; bầu thượng, 1 ô, có lông. Quả có thiết diện tam giác, dài 25 – 30cm hay hơn, mọc thõng xuống, mở làm 3 mảnh; hạt có 3 cạnh và có cánh màu trắng, dạng màng. Mùa hoa: tháng 4 – 6, mùa quả: tháng 7 – 9.
Thông tin thêm
1. Phân bố và sinh thái
Cây chùm ngây – Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – Tập I – Đỗ Huy Bích cùng các tác giả khác (đã sửa chính tả):
Moringa Adans. là một chi nhỏ, gồm một số loài thân gỗ mềm, mọc nhanh, phân bố ở vùng nhiệt đới châu Á và châu Phi. Ở Ấn Độ có 2 loài. Chùm ngây vốn được coi là loài bản địa của vùng Tây – Bắc Ấn Độ và Pakistan, sau được đưa vào trồng rộng rãi ở Ấn Độ và nhiều nước Đông Nam Á khác. Hiện nay vẫn tồn tại quần thể chùm ngây mọc hoang dại ở cận Himalaya, từ vùng Chenab đến phía đông của Sarda (Ấn Độ).
Ở Việt Nam, chùm ngây được trồng rải rác ở các tỉnh phía nam, từ Quảng Nam trở vào. Cây ưa sáng và ưa khí hậu nhiệt đới nóng và ẩm. Chùm ngây có thể sống và phát triển tốt trên nhiều loại đất, từ loại đất đỏ bazan ở Tây Nguyên đến sét pha cát hoặc trên đất cát của vùng ven biển. Cây trồng bằng hạt hay bằng cành, sau 2 năm bắt đầu có hoa. Cây trồng ở miền Nam thường ra hoa quả một vụ trong năm. Ở vùng Nam Ấn Độ, hàng năm có 2 vụ hoa quả thậm chí có hoa quả rải rác quanh năm. Người ta có thể thu hái quả non làm rau sau 55 – 70 ngày kể từ ngày hoa nở và quả chín sau 100 – 115 ngày (J.S. Siemonsma and Kasem Pilauek et al., 1994). Chùm ngây thường rụng lá vào mùa đông hoặc mùa khô (ở miền Nam). Mùa ra lá và chồi non thưởng trùng với mùa hoa. Ở Ấn Độ và các nước Đông Nam Á, chùm ngây được coi là một cây cho quả non và lá làm rau ăn thông dụng. Do được thuần hóa và trồng trọt lâu đời, cây chùm ngây đã có nhiều biến chủng khác nhau. Trong đó, đặc điểm quan trọng nhất để phân biệt giữa các giống là độ dài và màu sắc của quả (60 – 90cm và 90 – 120cm). Chùm ngây trồng ở các tỉnh phía nam thuộc nhóm quả ngắn (60 – 90cm).
2. Giá trị dinh dưỡng
Hầu hết các bộ phận của chùm ngây đều có giá trị sử dụng, từ toàn bộ lá, thân và cành đến quả hoặc vỏ hạt xanh non; hoa, hạt, thậm chí là rễ non.
Hàm lượng dinh dưỡng trong 100g lá chùm ngây tươi cung cấp hàm lượng đáng kể các vitamin nhóm B, cụ thể là thiamine (B1) 0,257 mg, riboflavin (B2) 0,660 mg, niacin (B3) 2,220 mg, axit pantothenic (B5) 0,125 mg, vitamin B6 1,200 mg, folate (B9) 40 μg; vitamin C (51,7 mg); vitamin A dưới dạng beta-carotene (378 μg); vitamin K; mangan và protein (số liệu được công bố trong dữ liệu của USDA hay Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ). Một phần canxi trong lá chùm ngây tồn tại dưới dạng tinh thể canxi oxalat, hấp thụ vào cơ thể kém hơn nhiều so với canxi “tự do”. Mức oxalat (chất phản dinh dưỡng) có thể dao động từ 430 đến 1050 mg trong 100g lá, so với (rau chân vịt) thì trung bình là 750 mg/100g.
Tham khảo thêm cây sống đời tại đây


3. Thành phần hóa học
Cây chùm ngây – Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – Tập I – Đỗ Huy Bích cùng các tác giả khác (đã sửa chính tả):
Lá chùm ngây chứa các chất gôm và 2 alkaloid là moringin và moringinin. Vỏ thân chứa chất benzylanin (??) và β-sitosterol.
Toàn cây có chất pterygospermin là chất có tính kháng các vi khuẩn gram (-), gram (+) và vi khuẩn ưa acid. Gần dày, người ta chiết được từ lá chùm ngây các glucosid có nhóm nitril: Niazirin (I) và niaziririn (II).
Các glucoside có chứa nhóm carbamate và thiocarbamat niazimin A và niazimin B, niazicin A và niazicin B cùng với glucoside benzaldehyde. Các dây nối amid đóng vai trò quan trọng đối với tác dụng hạ áp. Các chất carbamate và dithiocarbamate đều có tác dụng hạ áp (CA 1995 (122) 5480d, 27755Z).
Gôm chiết từ vỏ cây chứa arabinose, galactose, acid glucuronic và vết rhamnose. Từ gôm, chất leucoanthocyanin đã được chiết và xác định là leucodelphinidin-3-O-β-D-galactopyranosyl (1-4)-O-β-D-glucopyranoside (CA. 1997 (126) 341049s).
Hoa chứa polysaccharide (CA. 1994 (121) 141538K) được dùng làm chất phụ gia trong kỹ nghệ dược phẩm.
Hạt chứa các chất peptide, tách trên cột cephadex G25 được 14 chất peptide có tác dụng ức chế sự phát triển của nấm (CA. 1997, 127, 260017y).
Từ hạt, chiết bằng dung dịch đệm phosphat, sau đó trao đổi ion, tách được protein, với chuỗi acid amin gồm arginine, glutamine và proline (CA. 1995, (122) 284964c).
Hạt còn chứa 33 – 38% dầu béo không màu, vị dịu, lâu hỏng được dùng làm dầu ăn và dùng trong kỹ nghệ hương liệu.
4. Tác dụng dược lý
Cây chùm ngây – Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – Tập I – Đỗ Huy Bích cùng các tác giả khác (đã sửa chính tả):
Cao ethanol 50% của rễ chùm ngày, cho chuột cống trắng uống với liều 200mg/kg trong 7 ngày (ngày 1 – 7 sau giao hợp), hoặc trong 3 ngày (ngày 14 – 16 sau giao hợp), đã thể hiện hoạt tính chống sinh sản có ý nghĩa.
Cao nước rễ chùm ngây ức chế sự làm tổ của trứng đã thụ tinh ở chuột cống trắng sau khi cho liều 200mg/kg trong 7 ngày (ngày 1 – 7 sau khi giao hợp).
Đã nghiên cứu tác dụng của cao nước rễ chùm ngây trên cấu trúc mô của buồng trứng chuột cống trắng trong thời kỳ đầu mang thai để tìm xem có mối liên quan giữa tác dụng chống sinh sản và những biến đổi của buồng trứng. Những kết quả nghiên cứu cho thấy buồng trứng của chuột đối chứng có những hoàng thể rất phát triển và hoàng thể lớn, phân cách bởi khung giầu mạch máu nối thông nhau, biểu hiện những nét đặc trưng của sự mang thai. Ngược lại buồng trứng của chuột điều trị với chùm ngây, vẫn ở trong những tình trạng của chu kỳ với những hoàng thể mới hình thành. Những hoàng thể vẫn chắc và có kích thước không thay đổi. Đã nhận xét thấy những nang trứng bọc nước ở những giai đoạn phát triển khác nhau. Số lượng những sẹo nang trứng bình thường, và đã nhận xét thấy những nang đã chín với những gò trứng và chứa dây dịch nang trứng. Tất cả những nét đặc trưng này chứng tỏ cao nước chùm ngây không gây những nét đặc trưng mô học nào trong buồng trứng như nhận xét thấy trong thời kỳ mang thai.
Đã nghiên cứu ảnh hưởng của cao nước rễ chùm ngây, ở những giai đoạn trước và sau sự làm tổ của trứng, trên tử cung chuột cống trắng để tìm hiểu về cơ chế tác dụng chống sinh sản của chùm ngây. Kết quả xét nghiệm hóa sinh trên tử cung của chuột cống trắng mang thai đối chúng, ở những giai đoạn thai nghén khác nhau, phát hiện sự tăng dần hàm lượng protein toàn phần và glycogen và hoạt tính của phosphatase acid và kiềm từ ngày 2 đến ngày 5 sau khi giao hợp. Khi cho chuột cao nước rễ chùm ngây, đã nhận xét thấy sự giảm có ý nghĩa trong tất cả những thành phần hóa sinh, khi so sánh với nhóm chuột đối chứng tương ứng.
Đã thử nghiệm cao khô của lá chùm ngây trên chuột cống trắng cái về hoạt tính chống sinh sản. Đã nhận xét thấy hiệu quả gây sảy thai 100% khi cho uống cao khô hoa trong dung dịch nước với liều 175mg/kg thể trọng mỗi ngày cho chuột cống trắng chủng Charles Foster 90 ngày tuổi, từ ngày 5 đến ngày 10 sau khi ghép với chuột đực.
Nước ép lá và rễ chùm ngây có tác dụng kháng khuẩn mạnh đối với: Tụ cầu khuẩn vàng, Escherichia coli và Bacillus subtilisin vitro. Hạt chùm ngây ức chế sự phát triển của tụ cầu vàng, và vỏ rễ chùm ngây có tác dụng kháng siêu vi khuẩn đối với Vaccinia virus trong thử nghiệm in vivo.
Quả, vỏ rễ và gỗ rễ chùm ngây có tác dụng chống co thắt hồi tràng cô lập chuột lang gây bởi acetylcholin và histamin. Thuốc hãm với nước nóng của hạt biểu hiện hoạt tính ức chế có ý nghĩa co thắt tá tràng cô lập chuột cống trắng gây bởi acetylcholin với nồng độ (quy ra dược liệu khô ban đầu) là một liều ED50 65,6mg/ml dung dịch nuôi cơ quan cô lập.
Thuốc hãm với nước nóng của hạt và cao rễ chùm ngây có tác dụng ức chế viêm cấp tính trong mô hình gây phù bàn chân chuột cống trắng với caragenin. Thuốc hãm từ hạt cũng biểu hiện hoạt tính lợi tiểu khi theo dõi hiệu suất tiết niệu của chuột cống trắng trong chuồng chuyển hóa.
Chuột cống trắng có bệnh mủ da gây thực nghiệm với tụ cầu khuẩn vàng, được điều trị với một thuốc bôi dẻo bào chế với cao chiết từ hạt chùm ngây hoặc neomycin để so sánh. Thời gian lành bệnh mủ da do điều trị với thuốc bôi dẻo từ hạt chùm ngây tương tự như thời gian điều trị với neomycin, nhưng ngắn hơn so với chuột không điều trị, cho thấy chùm ngây có thể là liệu pháp thay thế để điều trị nhiễm khuẩn da.
Nghiên cứu tác dụng làm lành vết thương của cao rễ chùm ngây, đối với vết thương do rạch da hoặc cắt bỏ một miếng da, đã thấy có sự cải thiện trong những thông số theo dõi như tăng lực co dãn làm rách da cũng như tăng hàm lượng lysyl oxidase (LOX) và hexosamine ở những động vật được điều trị với cao rễ chùm ngây, cho thấy tác dụng làm lành vết thương có thể do sự liên kết tốt hơn của collagen.


Rau chùm ngây có tác dụng gì ?
Cây chùm ngây – Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – Tập I – Đỗ Huy Bích cùng các tác giả khác:
Cành non, lá non hoặc bánh tẻ, hoa và quả xanh chùm ngây đem luộc ăn có tác dụng kích thích tiêu hóa. Lá non dùng riêng hoặc phối hợp với các dược liệu khác làm thuốc lợi sữa. Lá già phơi khô sắc có tác dụng lợi tiểu nhẹ. Dầu ép từ hạt chùm ngây pha loãng dùng xoa bóp chữa tê thấp.
Trong y học dân gian Ấn Độ, tất cả các phần của cây chùm ngây được dùng điều trị cổ trướng, thấp khớp, vết cắn có nọc độc, và làm thuốc kích thích tim và tuần hoàn. Rễ của cây non và vỏ rễ có tác dụng gây xung huyết da và làm rộp da. Lá chứa nhiều vitamin A và C được coi là có tác dụng chữa bệnh scorbut và các bệnh viêm xổ; dịch ép lá được dùng làm thuốc gây nôn. Bột nhão từ lá đắp trị vết thương. Hoa là thuốc lợi tiểu và thông mật. Hạt có tác dụng hạ sốt. Dầu hạt dùng bôi chữa thấp khớp và bệnh gút.
Cao vỏ cây chùm ngây được dùng làm chất giải độc trị sâu bọ cắn và rắn cắn. Khi người bị động vật như mèo, chó hoặc chuột cắn, được khuyên lập tức cắn vào thân cây chùm ngây, hoặc nhai vỏ thân, và sau đó uống cao vỏ thân. Quả chùm ngày được coi là thuốc tăng đục và làm tăng độ nhớt của tinh dịch. Chùm ngây còn có trong thành phần một bài thuốc cổ truyền của Ấn Độ dùng chữa sỏi niệu. Vỏ thân chùm ngây cùng với lá cây Vitis assamica, lượng bằng nhau, được giã nát và đắp lên chỗ bị bệnh của cơ thể rồi phủ một miếng vải sạch để chữa bệnh liệt nhẹ. Giữ ẩm thuốc đắp bằng cách thỉnh thoảng vẩy nước khi bị khô. Mỗi đêm dùng thuốc này một lần, trong 2 tuần.
Trong y học dân gian Madagascar, rễ chùm ngây được coi là độc có thể gây chết. Dùng rễ chùm ngây làm thuốc đắp ngoài để chữa bệnh phổi, làm chuyển máu.
Theo kinh nghiệm dân gian nước ngoài, người ta dùng hạt chùm ngây để làm sạch nước. Nghiền nát hạt, trộn với một lượng nước thành một dung dịch đậm đặc, rồi đổ nước cần được làm sạch vào, khuấy đều trong 5 phút, để lắng trong 1 – 2 giờ, gạn bỏ các chất cặn bẩn.
Địa chỉ bán cây chùm ngây tại Hà Nội uy tín ?
Địa chỉ: Ngách 68/45, ngõ 68, đường Nguyễn Văn Linh, phường Long Biên, thành phố Hà Nội.
- Quý khách xin vui lòng liên hệ với Cây cảnh Hải Đăng để được các chuyên viên của chúng tôi tư vấn lựa chọn sản phẩm bầu giống chùm ngây phù hợp.
- Chúng tôi sẽ chụp ảnh sản phẩm cho quý khách nếu có yêu cầu.
- Chúng tôi sẽ kiểm tra kỹ hàng hóa đảm bảo chất lượng và đúng quy cách trước khi giao.
- Quý khách ở xa vui lòng tiến hành chuyển khoản trước hoặc đặt cọc trước. Nếu quý khách ở nội thành có thể áp dụng ship nhanh với chi phí 50k một lần ship.
Tài liệu tham khảo
- Chùm ngây – Wikipedia tiếng Việt.
- Moringa oleifera – Wikipedia tiếng Anh.
- Cây chùm ngây – Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – Tập I – Đỗ Huy Bích và các tác giả khác.