Độ hoàn thiện nội dung: 60%.
Thuốc lá, tên tiếng Anh là cultivated tobacco (danh pháp khoa học là Nicotiana tabacum L.), là một loài thực vật có hoa thuộc chi Thuốc lá Nicotiana trong họ Cà Solanaceae. Lá cây này được dùng để chế biến các sản phẩm thuốc lá. Hiện người ta vẫn đang nghiên cứu về nguồn gốc tổ tiên của loài này trong các loài Nicotiana hoang dại, rất có thể đây là một loài lai giữa N. sylvestris, N. tomentosiformis, và có thể là cả N. otophora (Nan Ren và Michael P Timko; 2001).



Mô tả cây thuốc lá
Cây thảo, sống hàng năm, phần gốc thân hóa gỗ ít nhiều. Thân mọc đứng, có nhiều lông, phân cành ở ngọn, các lá ở phía trên bé hơn, hình lưỡi mác. Phiến lá to có thể dài 60 – 75cm, rộng 30 – 50cm, không cuống, một mẫu lá phía dưới ôm vào thân. Hoa nhiều, tập hợp thành chùy ở ngọn. Đài có lông, tràng màu trắng hay hồng hoặc tím nhạt. Quả nang có 2 ô, có đài tồn tại bọc ở ngoài, hạt bé, nhiều, màu đen, 1ml có thể chứa tới 6.000 hat. Cùng loại với cây thuốc lá, ở nước ta còn trồng cây thuốc lào (Nicotiana rustica L.) với thân thấp hơn, lá to và dày hơn.
Thông tin thêm
1. Phân bố, thu hái và chế biến
Cây thuốc lá – Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi (đã sửa chính tả):
Cây thuốc lá vốn nguồn gốc ở châu Mỹ, nhưng được đưa về trồng ở nhiều nước trên thế giới: Người ta ước tính mỗi năm toàn thế giới sản xuất khoảng 4 triệu tấn thuốc lá khô, trong đó 3/4 sản xuất ở châu Mỹ và các nước châu Á. Những nước sản xuất nhiều thuốc lá trên thế giới có Mỹ (gần một triệu tấn/năm), Trung quốc, Ấn Độ, Brazil, Nhật Bản. Ở nước ta việc trồng thuốc lá chỉ mới được phát triển sau Cách mạng tháng Tám, vì trước đây hồi thuộc Pháp, việc trồng thuốc lá, thuốc lào bị hạn chế do phải xin phép. Thuốc lào thường chỉ trồng tập trung ở một số tỉnh như Hải Dương, Hưng Yên (Vĩnh Bảo), Hải Phòng (Tiên Lãng) … Những năm gần đây thuốc lá được trồng ở các tỉnh Vĩnh Phúc, Cao Bằng, Lạng Sơn, Hà Tây (Ba Vì), Gia Lai – Kon Tum, Đắk Lắk …
Trồng thuốc lá bằng hạt. Trước hết phải gieo hạt. Khi cây con cao chừng 10 – 15cm mới đánh đi trồng ở nơi cố định. Khoảng cách giữa mỗi cây chừng 65cm (tỉ lệ nicotine càng cao nếu các cây cách xa nhau vừa đủ). Thời vụ gieo trồng thay đổi theo giống và điều kiện khí hậu từng vùng. Ở Vĩnh Phúc người ta trồng vào tháng 12 (cho năng suất cao nhất), bắt đầu thu lá từ tháng 4, tháng 5. Thu hái lá từ phía dưới lên, trung bình mỗi hecta cho khoảng 1 tấn lá khô/năm. Trong thu hoạch thuốc lá, công việc phơi sấy đóng vai trò quyết định chất lượng của thuốc lá. Có thể phơi nắng nhưng để chủ động người ta thường sấy. Do đó cùng với việc trồng thuốc lá, nhất thiết phải thiết kế lò sấy.
Mặc dù thuốc lá là một chất độc, nhưng thế giới hiện nay vẫn trồng thuốc lá chủ yếu để hút, một số rất ít dùng làm thuốc trừ sâu bệnh cho cây trồng, một số ít nữa dùng làm thuốc chữa bệnh.
2. Thành phần hóa học (sưu tầm)
Cây thuốc lá – Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi (đã sửa chính tả):
Thuốc lá đã phơi hay sấy khô còn chứa tới 20% nước, hàm lượng chất vô cơ cũng rất cao: 15 đến 20% trong đó chủ yếu là kali, canxi, photphat, nitrat.
Trong thuốc lá còn xanh, hàm lượng glucid khá cao: Tới 40% bao gồm chủ yếu là tinh bột (8 – 12%), đường tan được ( 2- 4%) rồi đến pectin, xenlulose. Trong quá trình khô, lá bắt đầu ngả vàng, hàm lượng tinh bột và đường giảm xuống rất nhanh.
Các chất protein và lipid thường chỉ chiếm 12 và 5% trọng lượng khô.
Hàm lượng các axit hữu cơ cũng rất cao: 15 – 20% trong đó chủ yếu là axit malic, kèm theo axit citric, axit caffeic, axit chlorogenic (2 – 4% trọng lượng khô), axit quinic, và một axit đặc biệt: axit nicotinic (axit pyridin-3-carboxylic).
Trong thuốc lá còn có các hợp chất polyphenol: Ngoài axit chlorogenic, còn có các flavonoside: rutoside chiếm 1%, isoquercitrin (isoquercitroside), quercetol, vết cumarin, scopoletin (scopoletol). Các hợp chất polyphenol đóng vai trò quan trọng trong màu sắc và hương vị thuốc lá.
Thuốc lá còn chứa một ít tinh dầu (linalool, borneol), các hợp chất kiềm bay hơi (pyridin, N-methylpyrrolidine), nhiều men (glucosidase, oxydase, catalase).
Người ta cho hoạt chất chủ yếu của thuốc lá, thuốc lào là chất nicotine. Hàm lượng nicotine thay đổi từ 2 đến 10%, thuốc lào có thể chứa tới 16% nicotine.
Nicotine là một alkaloid được chiết ở thuốc lá từ năm 1828. Đây là một chất kiềm không chứa oxy, công thức thô là C10H14N2 với một nhân là pyridin và một nhân là N-methylpyrrolidine. Nicotine là một chất lỏng sánh, mùi hắc, vị nóng, cay. Khi tinh khiết, không có màu, nhưng ra ánh sáng và không khí ngả màu nâu. Nicotine tan trong nước, rất tan trong các dung môi hữu cơ. Nicotine là một alkaloid bay hơi mạnh, khi tiếp xúc với axit clohydric cho khói trắng.
Bên cạnh nicotine người ta còn thấy nornicotine (có nhiều trong một số loài thuốc lá trồng), anabasine (vì lần đầu tiên được chiết từ cây thuộc chi Anabasis) trong họ Dền (Amaranthaceae). Anabasine là đồng phân của nicotine. Ngoài ra người ta còn thấy một ít chất như cotinine, nicotyrine, myosmine …
Thành phần thuốc lá thay đổi nhiều trong quá trình phơi sấy và chế biến. Thường bao giờ trong thuốc lá phơi sấy hay chế biến, người ta nhận thấy:
– Tinh bột và đường hầu như giảm hoàn toàn.
– Axit malic giảm.
– Các protid thoái hóa và xuất hiện các dạng hợp chất tan như axit amin, asparagin.
– Hàm lượng nicotine có thể bị giảm, ngược lại hàm lượng axit nicotinic có thể tăng lên, hàm lượng axit chlorogenic cũng giảm xuống. Các hợp chất polyphenol bị oxy hóa làm cho thuốc lá chuyển màu nâu.
– Xuất hiện các axit béo tự do, các ancol và este thơm.

Reinskje Talhout cùng cộng sự (2007) đã đánh giá vai trò giả định của acetaldehyde trong việc nghiện thuốc lá. Ở loài gặm nhấm, acetaldehyde gây ra các tác động củng cố hành vi và hoạt động song song với nicotine. Harman và salsolinol, hai sản phẩm ngưng tụ từ quá trình phản ứng giữa acetaldehyde với các amin sinh học có thể là nguyên nhân chính gây ra tác động củng cố nói trên. Cả harman và salsolinol đều có khả năng ức chế enzyme monoamine oxidase (MAO), được biết một số chất ức chế MAO có thể làm tăng hành vi sử dụng nicotine và duy trì sự nhạy cảm về hành vi đối với nicotine. Harman được hình thành trong khói thuốc lá, quan sát thấy nồng độ chất này trong máu của người hút thuốc có thể cao gấp từ 2 đến 10 lần so với người không hút. Và vì harman dễ dàng xâm nhập vào não bộ thông qua hàng rào máu – não và có đủ khả năng ức chế MAO nên nó có thể góp phần làm giảm hoạt tính của MAO qua các quan sát trong não của người hút thuốc. Ngược lại, salsolinol chỉ hình thành với lượng rất nhỏ trong cơ thể, nhiều khả năng không đủ để đóng vai trò đáng kể trong việc gây nghiện thuốc lá. Do đó, acetaldehyde có thể làm tăng tiềm năng gây nghiện của sản phẩm thuốc lá thông qua quá trình hình thành các phức chất giữa acetaldehyde và các amin sinh học trong khói thuốc hoặc ngay trong cơ thể, tuy nhiên giả thuyết này vẫn cần được xác minh thông qua các nghiên cứu sâu hơn (Reinskje Talhout et al.; 2007).
Một nghiên cứu trên hai nguồn lá thuốc lá khác nhau cho thấy rằng rutin và axit chlorogenic có thể là hai loại polyphenol phổ biến nhất trong lá thuốc lá. Các polyphenol khác cũng thấy xuất hiện với hàm lượng nhỏ hơn nhưng không phát hiện thấy axit caffeic và tanin, trong khi isoquercitrin có thấy hiện diện ở lượng cực nhỏ. Phân tích dịch chiết từ lá thuốc lá bằng phương pháp sắc ký thấy có chứa axit aspartic và axit glutamic, asparagin, glutamin và một số axit amin khác. Ngoài ra, acid γ-aminobutyric (GABA) cũng có mặt với hàm lượng tương đối lớn ở một trong hai nguồn được nghiên cứu (E.A.H. Roberts và D.J. Wood; 1951).
Cây thuốc lá dễ dàng hấp thụ kim loại nặng từ khu vực đất xung quanh và tích tụ trong lá. Những kim loại này dễ dàng được cơ thể người sử dụng hấp thụ sau khi hít phải khói thuốc (Alireza Pourkhabbaz, Hamidreza Pourkhabbaz; 2012).
Xiaotao Zhang cùng cộng sự (2018) đã xác định nồng độ các alkaloid phụ và nitrosamine đặc hiệu trong thuốc lá như sau:
- Mục đích nghiên cứu: Các alkaloid phụ trong thuốc lá đóng vai trò quan trọng trong thành phần hóa học của khói thuốc lá và là tiền chất của các nitrosamine đặc hiệu của thuốc lá như 4-(methylnitrosamino)-1-(3-pyridyl)-1-butanone (NNK); N-nitrosonornicotine (NNN); N-nitrosoanabasine (NAB); N-nitrosoanatabine (NAT). Trong đó, NNK và NNN được phân loại là những chất gây ung thư nhóm 1.
- Phương pháp thực hiện: Các alkaloid phụ và nitrosamine đặc trưng của thuốc lá trong khói thuốc chính được chiết xuất bằng phương pháp siêu âm. Dịch chiết được tinh sạch bằng phương pháp chiết pha rắn phân tán và quá trình phân tách được thực hiện bằng công nghệ sắc ký lỏng siêu hiệu năng kết hợp với khối phổ quỹ đạo kép (UPLC – MS/MS Orbitrap).
- Kết quả: Phương pháp được kiểm chứng qua 6 mẫu thử lặp lại, được tăng cường với 3 mức độ nồng độ phân tích khác nhau. Hiệu suất thu hồi trung bình dao động từ 84,7% đến 118%, độ lệch chuẩn tương đối < 15%, ngoại trừ myosmin ở mức độ thấp. Giới hạn phát hiện được tính toán nằm trong khoảng từ 0,066 đến 13,2 ng/điếu. Nồng độ trung bình của các hợp chất nicotyrin, anabasin, nornicotin, anatabin, myosmin, 2,3-bipyridin, cotinin, nicotellin, N-formylnornicotin, NNK, NNN, NAB và NAT trong khói thuốc từ 30 nhãn hiệu thuốc lá thương mại theo quy trình hút ISO lần lượt là: 2,50 μg/điếu, 2,34 μg/điếu, 3,21 μg/điếu, 5,78 μg/điếu, 2,83 μg/điếu, 1,05 μg/điếu, 1,55 μg/điếu, 0,55 μg/điếu, 2,48 μg/điếu, 6,06 ng/điếu, 3,62 ng/điếu, 0,40 ng/điếu và 6,15 ng/điếu.
3. Tác dụng dược lý
Cây thuốc lá – Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi (đã sửa chính tả):
Thuốc lá là một cây độc, nhất là những lá già, có hàm lượng nicotine cao.
Người ta đã thấy người lớn đã chết do đã dùng 15 đến 20 gram thuốc lá dưới dạng hãm để thụt. Trẻ con chỉ cần vài gam cũng đủ chết.
Một số con vật nuôi trong nhà cũng rất nhạy cảm với nicotine nhưng người ta thấy một số con vật nhai lại có thể ăn những cây thuốc lá non mà không bị ngộ độc.
Nicotine là một chất độc mạnh, liều chết cho một người lớn là 0,06 gram.
Gần đây, những công trình nghiên cứu cho biết thuốc lá đóng vai trò làm tăng những bệnh tim mạch và một số dạng ung thư. Thống kê cho biết số người hút thuốc lá bị chết do ung thư phổi cao hơn là số người không hút. Nhựa của khói thuốc lá bôi lên da chuột có thể gây ung thư da. Cho nên gần đây người ta đang tìm cách hạn chế sự độc hại của thuốc lá bằng vận động không hút thuốc lá, hoặc hút thuốc lá đã loại bớt nicotine, hay hút thuốc lá có những đầu lọc bớt nicotine.
Công dụng và liều dùng thuốc lá


Mặc dù biết hút thuốc lá là một chất độc, nhưng việc tiêu thụ thuốc lá trên thế giới ngày càng tăng. Người ta đã ước tính bình quân một đầu người, một năm ở Thụy Sĩ dùng tới 5kg thuốc lá, tại Mỹ mỗi người mỗi năm tiêu thụ 4.8kg; tại Pháp 2,3kg.
Hiện nay thuốc lá, thuốc lào ít dùng làm thuốc đối với người. Trong nhân dân, người ta dùng thuốc lào, thuốc lá để đáp vào những nơi đứt tay chân, chảy máu để cầm máu. Còn dùng chữa rắn rết côn trùng cắn.
Thuốc lá hay được dùng chữa bệnh cho gia súc và phòng trừ sâu bệnh cho cây trắng (bảo vệ thực vật).
Đối với cây trồng người ta dùng bột vụn thuốc lá (dư phẩm của công nghiệp thuốc lá), dịch chiết thuốc lá hay dư phẩm công nghiệp thuốc lá có chứa mỗi lít từ 10 đến 20g nicotin sulfat. Khi dùng người ta pha loãng thành dung dịch chứa 1% nicotine rồi phun lên cây có sâu bọ. Nicotine không độc với cây trồng, nhưng sâu bọ hoặc tiếp xúc, hoặc hút nước có nicotine hoặc hít thở hơi thuốc sẽ bị ngộ độc. Tuy nhiên vì đây là chất độc, cho nên việc sử dụng phải theo đúng những quy định để tránh ngộ độc cho người sử dụng.
Đối với súc vật người ta dùng thuốc lá thuốc lào pha nước để chữa ghẻ, chấy rận, bọ chó: Dùng dung dịch chứa 1% nicotin. Tránh bôi lên những nơi đã bị sây sát để tránh ngộ độc.
Đôi khi người ta dùng trị giun sán của bò, dê với liều 5 – 6ml đối với bò, 1 – 2ml đối với dê, cao thuốc lá có chứa 40% nicotine.
Tài liệu tham khảo
- Nicotiana tabacum – Wikipedia tiếng Anh.
- Cây thuốc lá – Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi.
- Nan Ren và Michael P Timko (2001). “AFLP analysis of genetic polymorphism and evolutionary relationships among cultivated and wild Nicotiana species”. Genome. 44(4): 559-71.
- Reinskje Talhout et al. (10/2007). “Role of acetaldehyde in tobacco smoke addiction”. European Neuropsychopharmacol. 17(10): 627-36.
- E.A.H. Roberts và D.J. Wood (1951). “The polyphenols and amino acids of tobacco leaf”. Archives of Biochemistry and Biophysics. 33(2): 299-303.
- Alireza Pourkhabbaz, Hamidreza Pourkhabbaz (2012). “Investigation of Toxic Metals in the Tobacco of Different Iranian Cigarette Brands and Related Health Issues”. Iranian Journal of Basic Medical Sciences. 15(1): 636-644.
- Xiaotao Zhang et al. (2018). “Simultaneous determination of tobacco minor alkaloids and tobacco-specific nitrosamines in mainstream smoke by dispersive solid-phase extraction coupled with ultra-performance liquid chromatography/Tandem orbitrap mass spectrometry”. Rapid Communications in Mass Spectrometry. 32(20): 1791-1798.