Độ hoàn thiện nội dung: 80%.
Rau má hay tích tuyết thảo, lôi công thảo, tên tiếng Anh là Indian pennywort, Asiatic pennywort, spadeleaf, coinwort, gotu kola (danh pháp khoa học là Centella asiatica (L.) Urb.) là loài thực vật có hoa thuộc họ Hoa tán Apiaceae.






Mô tả cây rau má
Rau má – Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi (đã sửa chính tả):
Rau má là một loại cỏ mọc bò, có rễ ở các mấu, thân gầy, nhẵn. Lá hình mắt chim, khía tai bèo, rộng 2 – 4cm, cuống dài 2 – 4cm trong những nhánh mang hoa và dài 10 – 12cm trong những nhánh thường. Cụm hoa đơn mọc ở kẽ lá, gồm 1 đến 5 hoa nhỏ. Quả dẹt rộng 3 – 5mm, có sống hơi rõ.
Cây rau má – Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – Tập II – Đỗ Huy Bích cùng các tác giả khác (đã sửa chính tả):
Cây thảo nhỏ, cao 7 – 10cm. Thân mảnh, mọc bò, hơi có lông khi còn non, bén rễ ở các mấu. Lá mọc so le, nhưng thường tụ họp 2 – 5 cái ở một mấu, phiến lá nhẵn, hình thận hoặc gần tròn, mép khía tai bèo, cuống lá mành, dài 3 – 5 cm, có khi dến 7 – 8 cm.
Cụm hoa gồm những tán đơn mọc riêng lẻ hoặc 2 – 5 cái ở kẽ lá, mỗi tán mang 1 – 5 hoa (thường là 3) màu trắng hoặc phớt đỏ, hoa giữa không có cuống; tổng bao có 2 – 3 mảnh hình trái xoan, lõm, dạng màng; cánh hoa hình tam giác hoặc trái xoan; nhị có chỉ nhị ngắn, bao phấn hình mắt chim; bầu hình cầu. Quả màu nâu đen, đỉnh lõm, có 7 – 9 cạnh lồi, nhẵn hoặc có lông nhỏ, có vân mang. Mùa hoa quả: tháng 4 – 6.
Thông tin thêm
1. Phân bố, thu hái và chế biến
Rau má – Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi (đã sửa chính tả):
Mọc hoang tại khắp nơi ở Việt Nam và các nước vùng nhiệt đới như Lào, Campuchia, Indonesia, Ấn Độ, …
Toàn cây khi tươi có vị đắng, hăng hơi khó chịu; khi khô thì chỉ còn mùi cỏ khô. Thu hái quanh năm. Dùng tươi hay sao vàng.
Cây rau má – Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – Tập II – Đỗ Huy Bích cùng các tác giả khác (đã sửa chính tả):
Chi Centella L. có khoảng 40 loài, phân bố tập trung ở vùng Bắc Phi, còn loài rau má kể trên chỉ thấy ở vùng nhiệt đới Nam và Đông Nam châu Á, các tỉnh Nam Trung Quốc bao gồm cả đảo Hải Nam.
Ở Việt Nam, rau má là loại cây rất quen thuộc. Cây mọc tự nhiên khắp nơi, từ vùng hải đảo, ven biển đến vùng núi, độ cao dưới 1800 m. Ở một số nơi thuộc vùng Nam và Đông Nam Á, rau má phân bố đến độ cao 2500 m. Cây ưa ẩm, hơi chịu bóng; thường mọc thành đám ở vườn, bãi sông suối, nương rẫy, bờ ruộng cao và ven rừng.
Rau má sinh trưởng mạnh trong mùa mưa ẩm; đến mùa đông (ở miền Bắc) hay mùa khô (ở miền Nam) cây có hiện tượng bán tàn lụi. Cây ra hoa quả nhiều vào cuối mùa hè hoặc đầu mùa thu, tái sinh tự nhiên chủ yếu từ hạt. Do khả năng đẻ nhánh khỏe, cây thường tạo thành từng đám dày đặc lấn át các loại cỏ khác.
Do nhu cau sử dụng ngày càng tăng ở các nước như Madagascar, Sri Lanka, Philippines và cả ở miền Nam Việt Nam, người ta đã tiến hành trồng rau má. Cây trồng thành từng đoạn thân bò vào cuối mùa xuân hoặc đầu mùa mưa. Trồng một lần, có thể thu hoạch liền trong 2 – 3 năm. Ở các nước kể trên, mỗi năm người ta xuất ra thị trường thế giới vài trăm tấn rau má để làm thuốc hoặc làm nước giải khát (Indonesia: 19 – 125 tấn, Madagascar: 26 – 96 tấn).
Nguồn rau má mọc tự nhiên ở Việt Nam khá dồi dào. Cây chỉ mới được khai thác sử dụng tại chỗ, chưa trở thành mặt hàng thương mại hóa.

2. Thành phần hoá học (sưu tầm)
Rau má – Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi (đã sửa chính tả):
Rau má được nhiều người nghiên cứu, nhưng kết quả chưa thống nhất.
– Theo Basu và Lamsal (1947), trong rau má có một alkaloid gọi là hydrocotylin C22H33O8N (??), có độ chảy 210 – 212oC. Alkaloid này cho các muối oxalat với độ chảy 295oC, muối picrat với độ chảy 110 – 112o, muốichloroplatinate với độ chảy 134 – 136oC.
– Theo Bửu Hội, Rakoto Ratsimamanga và Boiteau, trong cây rau má thu hái ở đảo Mangat (??) có chứa một glucoside gọi là asiaticoside với công thức C48H78O19. Thuỷ phân asiaticoside sẽ cho axit asiatic và glucose. Chất glucoside này có tinh thể, tan trong rượu; độ chảy 230 – 233oC, có thể cho một dẫn xuất tan trong nước gọi là oxyasiaticoside có tác dụng điều trị được bệnh lao.
– Một số tác giả khác (Lythgoe và Trippet) nghiên cứu rau má mọc ở Sri Lanka (1949) đã lấy ra được một glucoside khác đặt tên là centelloside (Việt hóa: xentelozit) có tính chất gần như asiaticoside.
– Hiện nay, một số tác giả cho rằng hoạt chất của rau má là những saponin (axit asiatic, axit brahmic) có cấu trúc triterpene, có tác dụng tới mô liên kết, giúp cho các mô tái tạo nhanh chóng, do đó làm cho vết thương mau lành và lên da non.
Cây rau má – Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – Tập II – Đỗ Huy Bích cùng các tác giả khác (đã sửa chính tả):
Rau má chứa những hợp chất thuộc nhiều nhóm hóa học khác nhau:
Triterpene: Saponin triterpenic; asiaticoside (madecassol), madecassoside, …
Ngoài ra, còn có thankuniside và isothankuniside. Khi thủy phân, thankuniside cho acid thankunic, glucose và rhamnose. Isothankuniside đem thủy phân sẽ cho acid isothankunic, glucose và rhamnose.
Các acid triterpenic trong rau má là acid asiatic, acid brahmic, acid isobrahmic (Trung thảo dược học II, 1976).
Rau má không được chứa dưới 2% triterpene ester glucoside, asiaticoside và madecassoside (WhO monographs on selected medicinal planes, vol 1, 1999).
Tinh dầu: Phần trên mặt đất của cây rau má mọc ở Malaysia có 41 thành phần, trong đó 80% là các sesquiterpene (thành phần chính) và 10% germacrene-D (thành phần có nhiều).
Cây rau má mọc ở Sri Lanka chứa tinh dầu; trong đó có α-copaene 14%, β-caryophyllene 12%, trans-β-farnesene 53% và α-humulene 9%. (Prosca 12(1), 1991).
Các hợp chất polyacetylene: Rau má có 14 chất polyacetylene, trong đó 5 chất đã được nhận dạng là pentadeca-2,9-dien-4,6-diyn-1-ol acetate (1); 3,8-diacetoxypentadeca-1,9-dien-4,6-diyn (2); 3-hydroxy-8-acetoxy-pentadeca-1,9-dien-4,6-diyn (3); 3-hydroxy-10-acetoxy-pentadeca-1,8-dien-4,6-diyn (4) và pentadeca-1,8-dien-4.6-diyn-3,10-diol (5) (W. Tang và cs. 1992)
Flavonoid: Các flavonoid gồm kaempferol, quercetin, 3-glucosyl quercetin, 3-glucosyl-kaempferol (Trung dược Từ Hải I, 1993; W. Tang và cs. 1992).
Steroid: Các hợp chất steroid gom β-sitosterol, stigmasterol và campesterol.
Dầu béo: Các glycerid của các acid oleic, linoleic, lignoceric, palmitic, stearic, linolenic.
Acid amin: Acid glutamic, serine, alanine.
Các nhóm thành phần khác: Tanin, carotenoid, vitamin C, alkaloid (hydrocotylin), oligosaccharide (centelose).

3. Tác dụng dược lý
Cây rau má – Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – Tập II – Đỗ Huy Bích cùng các tác giả khác (đã sửa chính tả):
Hoạt chất asiaticoside của rau má đã được chứng minh có hiệu quả trong điều trị bệnh phong, do làm tan bao bằng chất giống sáp của trực khuẩn phong; trực khuẩn trở nên mỏng manh và dễ bị phá hủy. Khi tiêm dung dịch thuốc, các u nhỏ của bệnh nhân phong bị vỡ ra, những thâm nhiễm lan tỏa mất đi, những vết loét thủng và những thương tổn ở ngón tay lành lại, và đặc biệt những tổn thương ở mắt khỏi nhanh chóng, nếu tiến hành điều trị trước khi hốc sau của mắt bị tổn thương. Asiaticoside và oxy-asiaticoside (thu được do oxy hóa asiaticoside) được dùng điều trị một số thể bệnh lao.
Rau má có tác dụng chống phù thực nghiệm do kaolin, tương dương với aspirin. Thuốc mỡ rau má có tác dụng kích thích tái tạo tổ chức tế bào và điều chỉnh quá trình lên sẹo của vết thương do gây bỏng thực nghiệm cho thỏ. Thuốc có hiệu lực tốt trong điều trị các tổn thương bỏng nông xen kẽ bỏng sâu. Ở vết bỏng, phát triển tổ chức hai, lên da non và liền sẹo tốt. Thuốc không có tác dụng loại trừ tổ chức hoại tử bỏng và không có tác dụng kháng khuẩn với dạng thuốc đã dùng.
Rau má có tác dụng làm giảm nhẹ cơn dị ứng khó thở ở chuột lang đã được tiêm kháng nguyên để gây mẫn cảm, sau đó gây cơn dị ứng khó thở bằng cách đưa kháng nguyên vào đường hô hấp trong buồng khí dung (kéo dài thời gian an toàn hoặc hạ thấp tỷ lệ chuột chết); có tác dụng chống co thắt phế quản chuột lang, kéo dài thời gian an toàn, làm châm xuất hiện triệu chứng khó thở ở chuột đặt trong buồng khí dung histamin; kháng lại độc lực của nọc rắn, nâng cao tỷ lệ sống, kéo dài thời gian cầm cự của chuột đã tiêm nọc rắn hổ mang.
Nước sác rau má, qua phân tích bằng sắc ký lớp mỏng, thấy có một số vết chất có tác dụng chống oxy hóa trong ống kính. Nước sắc có tác dụng kháng khuẩn đối với trực khuẩn mủ xanh và tụ cầu khuẩn vàng. Rau má có tác dụng kháng Entamoeba histolytica trong ống kính và trên cơ thể sống, chống co thắt hồi tràng cô lập chuột lang gây bởi acetylcholin và histamin.
Các hợp chất triterpene được coi là hoạt chất có tác dụng dược lý. Nhiều thử nghiệm trên động vật và nghiên cứu lâm sàng đã xác nhận cao rau má có tác dụng làm lành vết thương.
Bệnh nhân bị bỏng, viêm mô tế bào, bị bệnh phong và loét da đã được điều trị trong những nghiên cứu có kiểm chứng. Acid asiatic, acid madecassic và asiaticoside được thử riêng rẽ và hỗn hợp trên sự tổng hợp collagen I ở các nguyên bào sợi của da người in vitro. Hỗn hợp cũng như từng thành phần riêng rẽ kích thích sự tổng hợp collagen I với mức độ tương đương. Collagen I góp phần làm lành vết thương.
Trong một nghiên cứu lâm sàng ở Italia, bệnh nhân, bệnh nhân có thiểu năng tĩnh mạch cấp do những nguyên nhân khác nhau được điều trị với cao rau má với liều 60 mgngày trong 4 tháng. Với đa số bệnh nhân, thuốc có tác dụng chống các triệu chứng chủ quan, nhưng không gây thay đổi đáng kể về soi mao mạch kết mạc.
Trong một nghiên cứu đa trung tâm, mù kép, có kiểm tra với placebo ở Pháp với những bệnh nhân có thiểu năng tĩnh mạch các chi dưới, có sự khác biệt có ý nghĩa trong tác dụng của cao rau má làm giảm sự năng ở các chi dưới và phù, và làm tăng sức căng của tĩnh mạch. Phân đoạn triterpene của rau má có tác dụng trên chuyển hóa của mô liên kết ở thành mạch và trên vi tuần hoàn. Điều trị với phân đoạn triterpene trong 3 tuần gây giảm có ý nghĩa số lượng tế bào nội mô lưu thông ở bệnh nhân có hội chứng sau viêm tĩnh mach.
Một cao rau má có hoạt tính chống virus herpes II. Asiaticoside có tác dụng thúc đẩy nhanh sự hồi phục của chuột lang có bệnh lao gây thực nghiệm. Hợp chất này làm lành bệnh do hoạt tính kìm vi khuẩn và kích thích mô lưới – nội mô. Tác dụng chống khối u của cao khô rau má và của những phân đoạn tinh chế một phần đã được nghiên cứu trong thử nghiệm in vitro thời gian ngắn và thời gian dài về tính hóa cảm thụ.
Sư tăng sinh của những dòng tế bào biến đổi bị ức chế nhiều hơn bởi những phân đoạn tinh chế một phần so với cao thỏ. Những liều có tác dung 50% khi cho tác động 3 giờ của các phân đoạn là 17 µg/ml đối với tế bào u báng Ehrlich và 22 µgml đối với tế bào u báng của u bạch huyết Dalton. Hầu như không phát hiện thấy tác dụng độc hại với tế bào lympho bình thường của người. Ở nồng độ 8 µgml, những phân đoạn tinh chế một phần cũng ngăn chặn dáng kể sự nhân lên của những nguyên bào sợi của phổi chuột nhắt trắng. Các cao làm chậm sự phát triển các u rắn và u báng và làm tăng thời gian sống của các chuột nhắt trắng mang u.
Nghiên cứu trên chuột lang cho thấy rau má và các thành phần asiaticoside, acid asiatic, madecassoside và acid madecassic có tác dụng gây mẫn cảm rất yếu; mặc dù bôi thường xuyên trên da bị tổn thương, khả năng gây mẫn cảm do tiếp xúc rất thấp. Liều độc của asiaticoside khi tiêm bắp cho chuột nhắt trắng và thỏ là 40 – 50 mg/kg thể trọng Khi cho uống 1g asiaticoside cho 1kg thể trọng không gây độc trên chuột cống trắng.
Rau má có tác dụng độc khi dùng liều rất lớn hoặc dùng thời gian dài. Nó có thể gây mê, nhức đầu, chóng mặt, và đôi khi ở người mẫn cảm, có thể dẫn tới hôn mê. Phần chỉ định đối với người có bệnh tim mạch và chảy máu bên trong. Khả nang gây ung thư của rau má chưa được nghiên cứu kỹ, tuy rau má có tác dụng gây ung thư nhẹ ở động vật thí nghiệm.
Asiaticoside cũng làm giảm khả năng sinh sản ở chuột nhắt trắng cái.

4. Cách trồng rau má
Cây rau má – Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – Tập II – Đỗ Huy Bích cùng các tác giả khác (đã sửa chính tả):
Rau má đã được trồng ở nhiều nơi, nhất là các vùng ven ở một số tỉnh, thành phố phía nam. Cây được nhân giống bằng cây con hoặc bằng hạt vào mùa xuân. Nếu trồng nhiều, có thể thu gom hạt chín, phơi khô, bảo quản đến tháng 1 – 2 đem gieo.
Rau má trồng được trên nhiều loại đất, tốt nhất là đất pha cát, đất thịt, giữ ẩm tốt, dại nắng. Đất cần cày bừa kỹ, đập nhỏ, bón lót mỗi hecta 10 – 12 tấn phân chuồng hoai, 110kg supe lân, 70kg kali, lên luống cao 20 – 25cm, rộng 1,2m. Cây con trồng với khoảng cách 10 x 10cm; hạt gieo vãi cho đều, mồi mét vuông gieo 1,5 – 2g hạt. Rau má bò lan rất nhanh. Từ các đốt thân bò xuất hiện rễ và hình thành một cụm mới. Vì vậy, khoảng cách trồng có thể thay đổi tùy theo điều kiện đất đai.
Rau má ít bị sâu bệnh, không đòi hỏi chăm sóc đặc biệt, nhưng phải thường xuyên giữ đủ ẩm, sạch cỏ. Khi thu hoạch, có thể dùng liềm cắt lấy toàn bộ phần trên mặt đất hoặc nhổ tỉa cả cây. Sau mỗi lần thu hái, cần bón thúc bằng nước phân chuồng, nước giải hoặc đạm pha loãng. Cứ 25 – 30 ngày, thu một lứa, có thể thu quanh năm, trừ những tháng mùa đông giá lạnh (cây ngừng sinh trưởng). Sau khi thu đợt cuối trong năm, nên dùng một lượng phân bón tương tự như lượng bón lót trộn với đất bột, phủ đều lên mặt luống. Nếu có tro bếp thay toàn bộ kali càng tốt. Sang xuân, cây lại tái sinh, tiếp tục cho thu hoạch.
Công dụng và liều dùng rau má
Rau má hiện nay còn là một vị thuốc dùng trong phạm vi nhân dân, đồng thời còn là loại rau người ăn được. Trong ca dao ta có câu:
“Đói ăn rau mưng, rau má,
Dừng ăn vất vả hư thân”.
Nhân dân coi vị rau má là một vị thuốc mát, vị ngọt, hơi đắng, tính bình, không độc, có tính chất giải nhiệt, giải độc, thông tiểu, dùng chữa thổ huyết, tả lỵ, khí hư, bạch đới, lợi sữa.
Ngày dùng 30 đến 40g tươi, vò nát vắt lấy nước uống hoặc sắc uống. Thuốc rau má không độc, phụ nữ có thai vẫn dùng được.
Tại một số nước, người ta chú ý nghiên cứu rau má để tìm tác dụng chữa bệnh hủi và bệnh lao.
Theo tập san Société des amis du parc botanique de Tananarive, 1941 và 1942 tại Mangat, người ta dùng rau má chữa hủi có kết quả tốt hơn chế phẩm của đại phong tử. Năm 1949, Lythgoe và Trippet đã nghiên cứu tác dụng chữa hủi của centelloside. Ngoài ra, chất chế từ asiaticoside có tác dụng chống vi trùng lao.
Ở một số nước, người ta chế rau má dưới dạng:
- Viên nén chứa 0,01g rau má để chữa các chứng dãn tĩnh mạch, chứng nặng chân do máu ở các tĩnh mạch chân chậm trở về tim. Ngày uống 3 – 6 viên vào bữa ăn.
- Thuốc tiêm 1ml chứa 0,02g cao rau má. Cách 1 ngày tiêm bắp 1 ống phối hợp bởi thuốc mỡ (1% cao rau má) hoặc thuốc bột chứa 2% cao rau má để chữa các vết bỏng, vết thương do chấn thương hoặc vết phẫu thuật, các tổn thương ở da và niêm mạc (tai, mũi, họng) hoặc sản phụ.
Các đơn thuốc có rau má:
Chữa đau bụng, đi ỉa lỏng, đi lỵ: Rau má (cả dây, cả lá) rửa sạch, thêm ít muối, nhai sống. Ngày ăn chừng 30 – 40g (kinh nghiệm nhân dân nhiều nơi). Có thể luộc rau má mà ăn như ăn rau.
Chữa phụ nữ kinh nguyệt đau bụng, đau lưng: Rau má hái lúc ra hoa, phơi khô, tán nhỏ. Ngày uống một lần, vào lúc buổi sáng, mỗi lần hai thìa cà phê gạt ngang.
Chữa rôm sảy, mẩn ngứa: Hàng ngày ăn rau má trộn dầu dấm. Hoặc rau má hái về, giã nát, vắt lấy nước, thêm đường vào mà uống hằng ngày.
Địa chỉ bán cây giống rau má tại Hà Nội uy tín ?
Địa chỉ: Ngách 68/45, ngõ 68, đường Nguyễn Văn Linh, phường Long Biên, thành phố Hà Nội.
- Quý khách xin vui lòng liên hệ với Cây cảnh Hải Đăng để được các chuyên viên của chúng tôi tư vấn lựa chọn sản phẩm cây rau má phù hợp.
- Chúng tôi sẽ chụp ảnh sản phẩm cho quý khách nếu có yêu cầu.
- Chúng tôi sẽ kiểm tra kỹ hàng hóa đảm bảo chất lượng và đúng quy cách trước khi giao.
- Quý khách ở xa vui lòng tiến hành chuyển khoản trước hoặc đặt cọc trước. Nếu quý khách ở nội thành có thể áp dụng ship nhanh với chi phí 50k một lần ship.
Tài liệu tham khảo
- Rau má – Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi.
- Centella asiatica – Wikipedia tiếng Anh.
- Cây rau má – Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – Tập II – Đỗ Huy Bích cùng các tác giả khác.