Bộ sưu tập







Độ hoàn thiện nội dung: 70%.
Lá lốt hay lá lốp, tên tiếng Anh là lolot pepper, lolot, wild betel, (danh pháp khoa học là Piper sarmentosum Roxb.) là loài thực vật thuộc họ Hồ tiêu (Piperaceae, bao gồm các loài như trầu không, hồ tiêu). Một số địa phương còn gọi là “nốt” (ở Nam bộ có nơi gọi là “lá lốp”). Lá lốt được dùng trong nấu ăn hoặc để trị vết thương, đắp vào chỗ đau.
Mô tả cây lá lốt
Cây lá lốt – Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi (đã sửa chính tả):
Lá lốt là một loại cây mềm, mọc cao tới 1m, thân hơi có lông. Lá hình trứng rộng, phía gốc hình tim, đầu lá nhọn, soi lên có những điểm trong, phiến lá dài 13cm, rộng 8,5cm, mặt trên nhẫn, mặt dưới hơi có lông ở gần, cuống lá dài chừng 2,5cm. Cụm hoa mọc thành bóng, bông hoa cái dài chừng 1cm, cuống dài 1cm.
Cây lá lốt – Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – Tập II – Đỗ Huy Bích cùng các tác giả khác (đã sửa chính tả):
Cây thân cỏ, sống dai, cao 30 – 40 cm. Thân phồng lên ở các mấu, có vạch dọc, đôi khi có màu nâu, hơi phủ lông. Lá đơn, nguyên, mọc so le, dài khoảng 13cm, rộng 8 – 10cm, gốc hình tim, đầu nhọn, mặt trên nhắn, mặt dưới có ít lông ở các đường gân, gân lá chằng chịt hình mạng lưới, cuống lá dài 2,5 cm. Cụm hoa mọc ở kẽ lá thành bông đơn tính, dài khoảng 1,5 cm. Trục bông cái có lông; lá bắc có phiến tròn, không cuống, bầu nhẵn, hình trứng, nằm sâu trong trục bông, đầu nhụy hình sợi. Quả mọng chứa một hạt. Mùa hoa quả: tháng 8 – 10.
Thông tin thêm
1. Phân bố, thu hái và chế biến
Cây lá lốt – Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi (đã sửa chính tả):
Cây lá lốt mọc hoang và được trống tại nhiều nơi ở miền Bắc nước ta, thường trống bằng mẩu thần cắt thành từng khúc 20 – 25cm, giâm vào nơi ẩm ướt, dưới bóng cây mát. Thường nhân dân trồng lấy lá làm gia vị hay làm thuốc. Lá hái quanh năm, có thể dùng thân, hoa hay rễ. Hái về dùng tươi hay phơi khô để dành, nhưng thường dùng tươi. Nếu dùng rễ thường hái vào tháng 8 – 9.
Cây lá lốt – Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – Tập II – Đỗ Huy Bích cùng các tác giả khác (đã sửa chính tả):
Lá lốt được coi là loài đặc hữu phổ biến của các nước Việt Nam, Lào, Campuchia (Võ Văn Chi, 1997).
Ở Việt Nam, lá lốt mọc tự nhiên khắp mọi nơi, từ vùng đồng bằng đến trung du, đặc biệt là các tỉnh vùng núi thấp (dưới 1000m). Lá lốt là cây ưa ẩm và ưa bóng, thường mọc thành những đám lớn ở ven rừng, dọc theo các bờ khe suối ở của rừng, chân núi đá vôi, các bờ ao ở quanh làng. Cây ra hoa quả hàng năm. Hình thức tái sinh tự nhiên chủ yếu là mọc chồi từ thân rễ.
2. Thành phần hoá học
Trong lá lốt có tinh dầu. Phân tích hóa học cũng chỉ ra rằng lá cây chứa chất chống oxy hóa naringenin hay (2S)-4′,5,7-trihydroxyflavan-4-one (Vimala Subramaniam et al.; 2003).
Cây lá lốt – Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – Tập II – Đỗ Huy Bích cùng các tác giả khác (đã sửa chính tả):
Thành phần hóa học Lá, thân và rễ chứa alkaloid và tinh đầu. Tinh dầu có 35 thành phần trong đó 25 thành phần đã được nhận dạng, thành phần chủ yếu là β-caryophyllene.
Rễ chứa tinh dầu, trong đó thành phần chính là bornyl acetate (Nguyễn Xuân Dũng và cs, 1996).
3. Tác dụng dược lý
Cây lá lốt – Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – Tập II – Đỗ Huy Bích cùng các tác giả khác (đã sửa chính tả):
Lá lốt có tác dụng kháng khuẩn đối với các vi khuẩn: Bacillus pyocyaneus, Staphylococcus aureus và Bacillus subtilis; đồng thời, có tác dụng chống viêm. Tác dụng kháng khuẩn của 3 dạng bào chế: cao lá khô, cao lá tươi và nước ép lá tươi gần tương tự như nhau. Cao lỏng lá lốt dùng ngậm và viên cao lá lốt dùng uống được thử nghiệm trên lâm sàng tỏ ra có tác dụng giảm đau và trị các bệnh viêm cấp tính về răng miệng, trị viêm do răng sâu có biến chứng, viêm khớp dây chằng ở răng, túi viêm răng khôn, nhất là ở hàm dưới.
Lá lốt có tác dụng gây giãn mạch ngoại biên và ức chế hoạt tính gây co thắt cơ trơn ruột của histamin và acetylcholin. Một đơn thuốc gồm lá lốt và 3 dược liệu khác đã được áp dụng điều trị các chứng đau khớp, đau xương và đã đạt kết quả tốt 29,26%; trung bình 53,65% và không kết quả trong 17,07% số bệnh nhân điều trị. Lá lốt có tác dụng ức chế men collagenase trong ống nghiệm.
Công dụng của lá lốt
Lá lốt có vị cay, mùi thơm, tính ấm, vào hai kinh: tỳ và phế, có tác dụng ôn trung tán hàn, hạ khí, chỉ thống, trừ phong thấp, kiện vị, tiêu thực, giảm đau, cầm nôn.
Lá lốt được dùng điều trị phong thấp, thấp khớp mạn, đau lưng, đau khớp, đau nhức xương, tay chân lạnh tê bại, rối loạn tiêu hóa, nôn mửa, đầy hơi, trướng bụng, đau bụng, tiêu chảy, thận và bàng quang lạnh, đau đầu, đau nhức răng, viêm cấp tính vùng răng miệng, chảy nước mũi hôi, ra mồ hôi tay chân, phù thũng. Ngày dùng 8 – 12g lá phơi khô hay 15 – 30g lá tươi sắc với nước, chia 2 – 3 lần uống trong ngày.
Dùng ngoài, lá lốt sắc đặc, ngậm chữa đau răng.
Kiêng kỵ: người bị dạ dày nhiệt, táo bón không nên dùng.
Bài thuốc có lá lốt:
Chữa chứng lợm giọng: Lá lốt 40g, tán nhỏ. Uống 2g trước mỗi bữa ăn, với nước cơm.
Chữa mũi chảy nước: Lá lốt, tán ra bột mà thổi vào.
Chữa nhọt độc vỡ lâu không liền miệng:
- Lá lốt, lá chanh, lá thanh yên, lá ráy, tía tô, đều bằng nhau, giã nhỏ.
- Lấy vỏ trong của cây chanh (bỏ vỏ thô ngoài), phơi khô giã thành bột mịn rắc vào, rồi gói các thuốc trên vào lá chuối tiêu, dùi lỗ, đắp vào. Mỗi ngày đêm thay một lần.
Chữa bệnh tổ đỉa: Lá thanh yên, nấu nước để nguội rửa. Sau lấy lá lốt, lá cà gai leo, đều bằng nhau, giã nhỏ, trộn với giấm, bôi.
Chữa vết thương do bị chém: Lá lốt 1 phần, lá thanh yên 2 phần, nõn khoai môn 2 phần. Thái thật nhỏ, gói vào lá chuối hột, dùi nhiều lỗ nhỏ, rồi đắp vào chỗ đau, mỗi ngày rửa và thay đắp 3 lần.
Chữa phong thấp, đau nhức xương:
- Rễ lá lốt, dây chìa vôi, rễ cỏ xước, hoàng lực, độc lực (rễ quýt rừng), hạt xích hoa xà, đơn gối hạc, mỗi vị 12g. Sắc uống (Hành giản trân nhu).
- Lá lốt 16g, tầm gửi cây dâu 12g, tục đoạn 12g. Sắc với 250ml nước còn 150ml, chia 2 lần uống vào ban ngày và buổi tối trước khi đi ngủ.
- Lá lốt 20g, vòi voi 40g, ké đầu ngựa 20g, ngưu tất 10g. Làm thành thuốc viên, mỗi lần uống 10 – 15g.
- Lá lốt, cỏ xước, cành dâu, cà gai, mỗi vị 20g; ngưu tất 10g. Sao qua, sắc uống mỗi ngày 1 thang, trong 3 – 5 ngày. Có thể củng cố kết quả bằng cách ăn lá lốt nấu với lạc trong 7 ngày liền.
- Rễ và thân lá lốt 20g, dây đau xương 10g, rễ thầu dầu tía 10g. Tất cả cắt ngắn, phơi khô, sắc với 400 ml nước còn 100 ml, uống làm 2 lần trong ngày. Dùng 7 – 8 ngày.
- Lá lốt 20g, thiên niên kiện 12g, gai tầm xoọng 16g. Sắc uống trong ngày.
- Lá lốt, cỏ xước, cẩu tích, hy thiêm, mỗi vị 20g; rễ sy 16g; rễ quýt rừng 16g; cà gai leo 12g; thiên niên kiện 12g. Sắc uống ngày một thang.
Chữa đau lưng, sưng khớp gối, hàn chân tê buốt:
- Rễ lá lốt, rễ bưởi bung, rễ cây vòi voi, rễ cỏ xước, mỗi vị 50g tươi. Tất cả thái mỏng, sao vàng. Sắc với 600ml nước, còn lại 300ml, chia 3 lần uống trong ngày.
- Lá lốt, ngải cứu, đều bằng nhau. Giã bát, chế thêm giấm, chưng nóng, đắp hoặc chườm.
Chữa phù thũng:
- Lá lốt tươi 40g, ngải cứu tươi 40g, lá sả tươi 40g, nghệ 10g. Tất cả sao vàng, sắc với 900 ml nước, còn lại 300ml, chia làm 3 lần uống trong ngày.
- Lá lốt, rễ cà gai leo, rễ mỏ quạ, rễ gai tầm xoọng, lá đa lông, mã đề, mỗi vị 12g. Sắc uống, ngày một thang.
Chữa viêm xoang, chảy nước mũi đặc: Lá lốt vò nát, đặt vào lỗ mũi.
Chữa viêm cấp tính do các bệnh về răng miệng, gây sưng nề ở má cằm, vùng hàm, viêm khớp dây chằng ở răng, túi viêm răng khôn: Cao mềm lá lốt 2g, đường kính 2g, nước vừa đủ 10ml. Hòa tan rồi ngậm.
Chữa viêm lợi, nha chu viêm (thuốc đau răng Dentocid): Cao mềm lá lốt, tinh dầu bạc hà, tinh dầu hương nhu, chlorophyll chiết từ lá tre. Tất cả bào chế thành cao lòng với cồn thấp độ. Dùng tăm bông thấm thuốc, chấm vào chỗ răng đau trong 5 – 10 phút. Sau đó súc miệng cho sạch.
Giải độc, chữa say nấm, rắn cắn: Lá lốt, lá khế, lá đậu ván trắng, mỗi vị 50g. Giã nát, thêm nước gạn uống.
Chữa đầy bụng, nôn mửa: Lá lốt 10 – 20g. Sắc uống.
Chữa ong bò vẽ đốt: Lá lốt, quả cà dại hoa trắng. Giã nát, lấy nước bôi.
Chữa đái tháo đường: Rễ cây lá lốt, rễ rau ngót, rẻ cườm gạo, cối xay, mỗi vị 20g. Các vị băm nhỏ sao qua, cho 4 bát nước sắc nhỏ lửa còn một bát, chia uống 2 lần trong ngày.
Cách trồng lá lốt
Cây lá lốt – Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – Tập II – Đỗ Huy Bích cùng các tác giả khác (đã sửa chính tả):
Lá lốt được trồng bằng các đoạn thân dài 20 – 30cm. Có thể trồng quanh năm, nhưng tốt nhất vào mùa xuân.
Cây thích đất ẩm, có bóng mát, thường được trồng trên đất tận dụng dọc theo hàng rào, tường xây, góc vườn, bờ ao. Chỉ cần cuốc đất, nhặt cỏ, giâm, hom, lấp đất 1 – 2 mắt rồi tưới ẩm là được. Sau khi mọc, thành cây bò lan trên mặt đất, bò đến đâu các đốt mọc rễ đến đó, ăn sâu vào đất.
Ở những nơi trồng để lấy rau bán, người ta làm đất, lên luống cẩn thận, có bón lót phân chuồng rồi đặt hom giống với khoảng cách 30 x 40cm hoặc 30 x 50cm. Trong suốt quá trình sinh trưởng, cần bảo đảm luôn đủ độ ẩm, mỗi lần thu hái lá xong cần tưới thúc bằng nước phân chuồng, nước giải hoặc đạm pha loãng. Cây ít bị sâu bệnh.
Địa chỉ bán cây rau lá lốt tại Hà Nội uy tín ?
Địa chỉ: Ngách 68/45, ngõ 68, đường Nguyễn Văn Linh, phường Long Biên, thành phố Hà Nội.
- Quý khách xin vui lòng liên hệ với Cây cảnh Hải Đăng để được các chuyên viên của chúng tôi tư vấn lựa chọn sản phẩm bầu giống lá lốt phù hợp.
- Chúng tôi sẽ chụp ảnh sản phẩm cho quý khách nếu có yêu cầu.
- Chúng tôi sẽ kiểm tra kỹ hàng hóa đảm bảo chất lượng và đúng quy cách trước khi giao.
- Quý khách ở xa vui lòng tiến hành chuyển khoản trước hoặc đặt cọc trước. Nếu quý khách ở nội thành có thể áp dụng ship nhanh với chi phí 50k một lần ship.
Tài liệu tham khảo
- Lá lốt – Wikipedia tiếng Việt.
- Cây lá lốt – Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – Tập II – Đỗ Huy Bích cùng các tác giả khác.
- Vimala Subramaniam, Mohd Ilham Adenan, Abdull Rashih Ahmad, Rohana Sahdan (2003). “Natural Antioxidants: Piper sarmentosum (Kadok) and Morinda elliptica (Mengkudu)”. Malaysian Journal of Nutrition; 9(1):41-51.











