Độ hoàn thiện nội dung: 70%.
Me rừng hay du cam tử, ngưu cam tử, dư cam tử, mận rừng, me quả tròn, chùm ruột núi, chùm ruột rừng, tên tiếng Anh là emblic, emblic myrobalan, myrobalan, nelikai, Indian gooseberry, Malacca tree, amloki, amla (danh pháp khoa học là Phyllanthus emblica L.), là một loài thực vật có hoa thuộc họ Diệp hạ châu Phyllanthaceae.



Mô tả cây me rừng
Cây me rừng – Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – Tập II – Đỗ Huy Bích cùng các tác giả khác (đã sửa chính tả):
Cây nhỡ, phân cành nhiều, cao 5 – 7m, có khi hơn. Cành nhỏ mềm, có lông. Lá nhỏ thuôn hẹp, dài 9 – 10mm, rộng 2 – 3mm, xếp xít nhau thành 2 dãy, nom như một lá kép lông chim, mặt trên màu lục xám, mặt dưới nhạt hơi hồng; lá kèm rất nhỏ.
Cụm hoa mọc ở kẽ lá ở cuối cành thành xim hoặc tán; hoa đơn tính cùng gốc màu vàng gồm nhiều hoa đực và ít hoa cái; hoa đực có 6 lá đài, 3 dính nhau, ngắn hơn đài; hoa cái có cuống ngắn hơn hoa đực nhiều, có 6 lá đài dày hơn, bầu 3 ô, mỗi ô chúa 2 noãn. Quả thịt hình cầu, to bằng quả táo ta, có khía rất mờ, vị chua chát, ăn được; hạt màu nâu đỏ. Mùa hoa quả: tháng 5 – 10.
Thông tin thêm
1. Phân bố và sinh thái
Cây me rừng – Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – Tập II – Đỗ Huy Bích cùng các tác giả khác (đã sửa chính tả):
Me rừng là một trong số ít loài cây gỗ thuộc chi Phyllanthus L. ở Việt Nam. Cây có nguồn gốc ở vùng Ấn Độ – Malaysia, nhưng vùng phân bố hiện nay gồm hầu hết các nước có khí hậu nhiệt đới ở Nam Á và Đông – Nam Á, như Ấn Độ, Malaysia, Lào, Campuchia, Thái Lan, Việt Nam và cả ở vùng Nam Trung Quốc.
Ở Việt Nam, me rừng phân bố tương đối phổ biến ở các tỉnh vùng núi thấp (dưới 1000m) và trung du. Cây ưa sáng, chịu hạn tốt và có thể sống được trên nhiều loại đất, kể cả ở vùng đối khô cần, đất nhiều sỏi đá và nghèo dinh dưỡng. Cây thường mọc ở rừng thứ sinh, rừng thưa, đồi cây bụi…, rụng lá vào mùa đông.
Sau mùa ra lá non mới đến mùa hoa, số lượng hoa quả trên một cây khá nhiều, tái sinh tự nhiên bằng hạt. Cây chịu được chặt phá và có thể tồn tại qua thảm họa cháy rừng.


2. Thành phần hoá học
Cây me rừng – Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi (đã sửa chính tả):
Quả chứa khoảng 45% tanin. Quả còn xanh chứa 30 – 35% tanin (Trung Quốc kinh tế thực vật chí, 1961, 1178). Thành phần tanin gồm acid chebulinic C41H32O27, acid chebulagic C41H30O27, corilagin C27H22O18, terchebin C41H30O27, acid chebulic C14H12O11, acid gallic, acid ellagic (CA. 1966, 64, 3961d). Ngoài ra còn acid phyllaemblic C16H28O17 (COOH)8, emblicol C20H30O19(OCH3)6, (CA. 1959, 53, 5416), axit mucic C6H10O8, (CA., 1962, 56, 15830c), rất nhiều vitamin C (1 – 1,8g/100g) (CA. 1961, 55, 4815d).
Lá chứa tanin (lá non 23 – 28%), ngoài ra còn kaempferol 3-glucoside (Sumbra-manian S. S. et al., Phytochemistry, 1971, 10, 2549), sitosterol, axit ellagic và lupeol (CA. 1968, 69, 74455y).
Vỏ thân chứa 28 – 29,36% tanin, 2,25% lupeol, 3,75% d-leucodelphinidin (CA. 1958, 52, 20455b).
Cây me rừng – Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – Tập II – Đỗ Huy Bích cùng các tác giả khác (đã sửa chính tả):
Quả me rừng chứa tanin bao gồm acid chebulinic, acid chebulagic, corilagin, terchebin, acid chebulic, acid phyllaemblic, emblicol, acid mucic. Ngoài ra, còn có ethyl gallate (CA 65: 12732b), vitamin C với hàm lượng cao (1,0 – 1,8g/100g). Thịt quả chưa chín chứa 18 – 30% tanin (có khi cao hơn). Sự có mặt của tanin trong quả giúp cho đề phòng hoặc làm chậm sự oxy hóa của vitamin. Quả là nguồn cung cấp pectin (PROSEA 3, 1992).
Rễ chứa β-sitosterol. Vỏ, thân chứa tanin 28 – 29,36%, d-leucodelphinidin. Thân có lupeol (CA 69: 74.455v).
Lá chứa tanin (lá non có tanin 23 – 28%), kaempferol, kaempferol-3-glucoside (= astragalin), β-sitosterol, lupeol (Trung dược Từ Hải II. 1996; Trung dược chí III, 1993; Trung thảo dược học 11, 1976).
Ngoài ra me rừng còn lupenone, quercetin (PROSEA 12(1), 1999). Một số chất có tác dụng sinh học như putranjivain A, emblicanin A và B, punigluconin, pedunculagin, phyllemblin. Hạt chứa 16% dầu béo (PROSEA 3, 1992).


3. Tác dụng dược lý
Cây me rừng – Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – Tập II – Đỗ Huy Bích cùng các tác giả khác (đã sửa chính tả):
Quả me rừng chứa nhiều vitamin C, nên có tác dụng trị bệnh Scorbut (bệnh thiếu vitamin C). Vitamin C trong quả me rừng dễ hấp thu vào cơ thể hơn vitamin C tổng hợp. Có tác dụng kháng khuẩn mạnh, kháng nấm, và chống oxy – hóa. Cao nước quả me rừng đối kháng với tác dụng độc hại của Cs+ (cesium), Zn2+ và chất màu vàng metanyl tương tư như lượng tương đương của vitamin C, nhưng có hiệu quả nhiều hơn chống lại những tác dụng của ethylparathion, Pb2+, Al+ và Ni2+ so với lượng tương đương vitamin C dùng riêng.
Acid gallic và vitamin C đều có tính chất chống oxy – hóa, kháng khuẩn và gây chelat hóa (chelat là một phức hợp giữa một kim loại và một hợp chất có thể có hai mối kết hợp hoặc nhiều hơn), trong khi tanin bảo vệ vitamin C khỏi bị oxy – hoa. Hoạt tính chống oxy – hóa của quả me rừng còn do sự có mặt của những tanin có thể bị thủy phân, như emblicanin A và B, punigluconin và pedunculagin.
Phyllemblin làm tăng tác dụng của adrenalin, có tác dụng ức chế nhẹ trên hệ thần kinh trung ương và chống co thắt. Cao quả me rừng ấp dụng trên chuột nhắt trắng làm giảm tác dụng độc hại tế bào của chất gây ung thư 3,4-benzo[a]pyrene, và cao nước của quả bảo vệ chống thương tổn nhiễm sắc thể ở đầu ngọn rễ tỏi do chiếu tia X, những tác dụng này được quy cho hệ thống chống oxy – hóa của vitamin C, acid gallic, đường khử và tanin. Bột quả me rừng làm tăng hoạt tính của tế bào giết tự nhiên và độc tính tế bào phụ thuộc kháng thể ở chuột nhắt trắng có u báng, u bạch huyết Dalton.
Dịch ép quả làm giảm nồng độ cholesterol ở người và thỏ cho uống cholesterol. Viên nén Abana bào chế từ quả me rừng và một số dược liệu khác cho uống trong thời gian dài dã có tác dụng hạ lipid trên chuột cống trắng. Nồng độ β-lipoprotein và apoprotein huyết thanh giảm đáng kể; lipoprotein tỷ trọng thấp giảm; lipoprotein tỷ trọng cao hơi tăng Abana ức chế rõ rệt tổng hợp cholesterol ở gan và tăng thải trừ acid mật trong phân.
Cao methanol của quả me rừng có tác dụng ức chế enzym transcriptase ngược của virus gây suy giảm miễn dịch ở người (HIV), có thể khai thác để dự phòng và điều trị bệnh AIDs. Hoạt chất có tác dụng mạnh nhất được phân lập là putranjivain A. Cao cồn của quả, và quercetin phân lập từ cao có tác dụng hảo về gan in vivo ở chuột cống và chuột nhắt trắng. Cao chiết từ lá me rừng có tác dụng ức chế trên bạch cầu hạt và tiểu cầu người, xác minh một phần tác dụng chống viêm và hạ nhiệt của lá me rừng. Một phần lớn công dụng trị bệnh của me rừng có liên quan với tác dụng lâm sàng của tanin. Tuy tác dụng trong thời gian ngắn có thể có ích, việc dùng thường xuyên tanin toàn thân có thể nguy hiểm do tác dụng kháng dinh dưỡng của chất này.



Công dụng và liều dùng me rừng
Quả me rừng có vị chua, ngọt, đắng, tính mát, có tác dụng nhuận phế, hóa đờm, sinh tân dịch, khỏi khát. Rễ me rừng vị đắng, chát, tính mát, có tác dụng thu liễm và giảm huyết áp.
Đi rừng khi đang khát nước, gặp cây me rừng, hái quả, rửa sạch, cắn nhẹ, nuốt nước dần dần. Lúc đầu quả có vị chua chát, sau ngọt dần (nên có tên dư cam tử). Có người đã hái quả để ăn dần chống khát khi đi đường xa. Quả me rừng chữa bệnh Scorbut (thiếu vitamin C). Quả me rừng ướp muối, phơi khô làm ô mai ngậm chữa ho, viêm họng, chống nôn mửa.
Thường dùng quả me rừng chữa cảm mạo, sốt, ho, viêm họng, miệng khô phiền khát. Mỗi ngày 10 – 30 quả sắc uống. Để chữa viêm ruột, đau bụng đi ngoài, cao huyết áp, ngày dùng 15 – 20g rễ sắc uống. Chữa viêm da, mẩn ngứa, lở loét bằng lá nấu nước tắm rửa bên ngoài. Chữa nước ăn chân: Quả me rừng tươi giã nát, lấy nước bôi. Vỏ thân cây me rừng giã nhỏ, thêm nước, gạn uống, bã đắp chữa rắn độc cắn.
Ở Indonesia, nhân dân dùng nước sắc quả me rừng khô trị tiêu chảy ra máu, đắp thịt quả lên đầu chữa nhức đầu, chóng mặt và sốt.
Ở Myanmar và Thái Lan, dịch ép quả me rừng nhuận tràng và chữa viêm mắt; nước sắc lá trị sốt và bệnh da. Vỏ rễ là thuốc làm săn. Ở Lào, Campuchia, quả me rừng trị tiêu chảy, đau bụng và những rối loạn khác ở bụng.
Ở Ấn Độ, quả me rừng tươi hoặc phơi khô dược dùng chữa bệnh scorbut, đái tháo đường, sốt, viêm phế quản, ho và làm thuốc lợi tiểu, nhuận tràng. Quả ăn sống để nhuận tràng, quả khô trị chảy máu, tiêu chảy, lỵ. Kết hợp với sắt, quả được dùng trị thiếu máu, vàng da, khó tiêu. Một loại nước ngọt lên men chế từ quả me rừng trị vàng da, khó tiêu, ho. Nước quả me rừng hòa với nước chanh chữa lỵ cấp tính. Một chế phẩm từ me rừng, kha tử và bàng hôi (Terminalia bellirica) được dùng làm thuốc tẩy, trị nhức đầu, da tiết mật, khó tiêu, táo bón, trĩ, gan to và cổ trướng. Dịch rỉ từ vết rạch của quả bôi ngoài trị viêm mắt. Hoa có tác dụng làm mát, hết khát và nhuận tràng. Rễ và vỏ cây làm săn. Quả khô có tính chất tẩy rửa, dùng gội đầu. Dầu cố định chiết từ quả có tác dụng kích thích mọc tóc. Hạt me rừng trị hen, viêm phế quản, da tiết mật
Quả me rừng là một thành phần trong nhiều thuốc cổ truyền Ấn Độ; có trong công thức một bài thuốc chữa sỏi niệu, và một bài thuốc khác chữa bệnh về gan, được chứng minh có tác dụng bảo vệ chống độc hại gan. Thuốc gội đầu chứa me rừng, bồ hòn ba lá (Sapindus trifoliatus), đa lá tròn và kinh giới cay (Origanum vulgare) được điều trị cho nam và nữ 10 – 45 tuổi bị rụng tóc từng vùng; sau 6 tháng điều trị, 80% trường hợp đã mọc tóc trở lại.
Ở Nepal, dịch ép vỏ cây me rừng trị lỵ amip, uống mỗi lần 3 thìa cà phê, ngày 3 lần. Để trị tiêu chảy, uống 15 – 20ml dịch ép quả hòa loãng với nước, cho thêm ít muối, ngày 2 – 3 lần, trong 2 – 4 ngày. Để chữa nhức đầu, dùng 2 – 3g thịt quả, uống với sữa nóng, thường sau 2 – 3 giờ, phải uống một liều thứ hai.
Địa chỉ bán cây giống me rừng uy tín, chất lượng ?
Địa chỉ: Ngách 68/45, ngõ 68, đường Nguyễn Văn Linh, phường Long Biên, thành phố Hà Nội.
- Quý khách xin vui lòng liên hệ với Cây cảnh Hải Đăng để được các chuyên viên của chúng tôi tư vấn lựa chọn sản phẩm cây giống me rừng phù hợp.
- Chúng tôi sẽ chụp ảnh sản phẩm cho quý khách nếu có yêu cầu.
- Chúng tôi sẽ kiểm tra kỹ hàng hóa đảm bảo chất lượng và đúng quy cách trước khi giao.
- Quý khách ở xa vui lòng tiến hành chuyển khoản trước hoặc đặt cọc trước. Nếu quý khách ở nội thành có thể áp dụng ship nhanh với chi phí 50k một lần ship.