Độ hoàn thiện nội dung: 70%.
Lá ngón hay rút ruột, co ngón, hồ mạn trường, hồ mạn đằng, đoạn trường thảo, xóa nợ, tên tiếng Anh là heartbreak grass (danh pháp khoa học là Gelsemium elegans (Gardner & Champ.) Benth.), là một loài thực vật có hoa thuộc họ Hoàng đằng Gelsemiaceae.
Cây lá ngón được coi là loại cây độc nhất trong nước ta. Người ta cho rằng chỉ cần ăn 3 lá là đủ chết người.
Tên cây ngón còn dùng để chỉ một cây khác nữa có tên khoa học là Pterocarya tonkinensis (Franch.) Dode thuộc họ Hồ đào Juglandaceae. Cần chú ý tránh nhầm lẫn.


Mô tả cây giống lá ngón
Cây lá ngón (đoạn trường thảo) – Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi (đã sửa chính tả):
Đoạn là đứt, trường là ruột, tên đoạn trường thảo vì người ta cho rằng uống vị này sẽ bị đứt ruột mà chết.
Đoạn trường thảo hay cây lá ngón là một loại dây mọc leo, thân và cành không có lông, trên thân hơi có khía dọc. Lá mọc đối, hình trứng thuôn dài, hay hơi hình mác, đầu nhọn, phía cuống nhọn hay hơi tù, mép nguyên, bóng, nhẵn, dài 7 – 12cm, rộng 2,5 – 5,5cm. Hoa mọc thành xim ở đầu cành hay ở kẽ lá. Cánh hoa màu vàng. Có tài liệu nói hoa màu trắng, nhưng bản thân tôi đã kiểm tra lại là màu vàng (tại Lạng Sơn và các nơi khác là Sapa, Hà Giang). Mùa hoa tháng 6 – 8 – 10. Quả là một nang, dài, màu nâu hình thon, dài 1cm, rộng 0,5cm. Hạt nhỏ, quanh mép có rìa mỏng màu nâu nhạt, hình thận.
Cây lá ngón – Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – Tập II – Đỗ Huy Bích cùng các tác giả khác (đã sửa chính tả):
Cây leo, dài 5 – 7m. Thân cành hình trụ, nhẵn. Lá mọc đối, hình trứng, gốc tròn, đầu thuôn thành mũi nhọn, mép nguyên, hai mặt nhẵn, mặt trên sẫm bóng, mặt dưới nhạt. Cụm hoa mọc ở kẽ lá hoặc đầu cành xim dạng ngù; hoa màu vàng; đài 5 răng nhỏ, rời; tràng 5 cánh dính nhau thành ống hình phễu; nhị 5 đính ở phía dưới ống tràng; bầu nhẵn. Quả nang, màu nâu; hạt nhỏ có rìa mỏng bao quanh, mép khía rách. Mùa hoa: tháng 10 – 12; mùa quả: tháng 1 – 3.

Thông tin thêm
1. Phân bố, thu hái và chế biến
Cây lá ngón (đoạn trường thảo) – Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi (đã sửa chính tả):
Cây lá ngón khá phổ biến ở miền rừng núi Việt Nam. Người ta thường không dùng làm thuốc, mà chỉ dùng để tự tử hay với mục đích đầu độc. Các tỉnh miền núi như Hòa Bình, Hà Tây, Lào Cai, Cao bằng, Tuyên Quang, Hà Giang đều có. Còn có ở một số nước ở vùng nhiệt đới và á nhiệt đới châu Á. Ở Trung Quốc người ta thấy ở Phúc Kiến, Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam, Tứ Xuyên. Bắc châu Mỹ có loài Gelsemium sempervirens (L.) J.St.-Hil.
Nhân dân ta hay dùng lá như trên đã nói, trái lại Trung Quốc hay dùng rễ và bán tại các hiệu thuốc để làm thuốc chữa hủi hay chữa bệnh nấm ở tóc (Meigne). Cũng được dùng với mục đích đầu độc.
Cây lá ngón – Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – Tập II – Đỗ Huy Bích cùng các tác giả khác (đã sửa chính tả):
Chi Gelsemium Juss. có 3 loài trên thế giới, phân bố ở các vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới; trong đó 2 loài ở vùng châu Mỹ và 1 loài là lá ngón chỉ thấy ở Nam và Đông Nam châu Á như Ấn Độ (vùng Khasi, Lushai, Manipur); Thái Lan (Chiang Mai, Krabi, Kanchanaburi, Narathiwat); Indonesia (Java, Sumatra); Lào (Khăm Muộn, Hủa Phăn, Xiêng Khoảng); Sri Lanka; bán đảo Malaysia, Trung Quốc (Quảng Tây, Vân Nam, Hồng Kông) và Việt Nam. Ở Việt Nam, lá ngón phân bố rải rác ở nhiều tỉnh miền núi như Cao Bằng, Thái Nguyên, Thanh Hóa, Lâm Đồng (Bảo Lộc), Hà Tĩnh (xã Sơn Lĩnh, huyện Hương Sơn), Quảng Ngãi, Quảng Trị, Kon Tum và Hà Giang (Đèo 9 tầng huyện Đồng Văn) … lá ngón là cây thường xanh, ưa ẩm, ưa sáng hoặc có thể hơi chịu bóng, thường mọc trùm lên các loại cây bụi hay các loại tế guột ở rừng thứ sinh, ven bờ suối hay đồi cây bụi ở độ cao từ 300m (Sơn Lĩnh – Hương Sơn, Hà Tĩnh) đến khoảng 1500m (huyện Đồng Văn, Hà Giang). Cây ra hoa quả nhiều vào cuối thu – đầu đông.
Khi chín quà tự mở để hạt thoát ra ngoài. Xung quanh gốc cây mọc thường thấy nhiều cây con mọc từ hạt. Sau khi bị chặt phá, phần còn lại có khả năng tái sinh cây chồi khỏe.
2. Thành phần hoá học
Cây lá ngón – Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – Tập II – Đỗ Huy Bích cùng các tác giả khác (đã sửa chính tả):
Theo tài liệu nước ngoài, toàn cây lá ngón chứa các alkaloid: Gelsemine; gelsemicine; gelsedine; gelsevirine; gelsemidine; sempervirine; koumine; koumicine; koumidine; kouminicine; koumirudine; L- methoxygelsemine; 21-oxogelsemine; 14-hydroxygelsemicine.
Thân chứa 11-methoxy-19(R)-hydroxygelselegine; 20-hydroxydihydro ankinidine; 19(R)-hydroxydihydrokoumine; 19(S)-hydroxydihydrokoumine; N-demethoxyhumantenine; 15-hydroxyhumantenine; gelsemoxonine; 19(R)-hydroxydihydrogelsevirine; 19(R)-acetyldihydrogelsevirine; 19(R)-hydroxydihydrogelsemine.
Lá chứa 16-epivocarpine; 19-oxogelsenicine; 19(Z)-akuammidine, gelsemine, gelsemine-N-oxide; koumine-N-oxide, koumine. Hạt chứa 14-hydroxygelsedine.
Rễ chứa 16-epivocarpine; 19-hydroxydihydrogelsevirine; 19(Z)-taberpsychine; gelsemine; gelsevirine; koumine; gelsenicine; 14-hydroxygelsenicine, humantenine; koumidine; 19(Z)-akuammidine, humantenmine; humantenidine; humantenirine; N-methoxyanhydrovobasinediol.
Cây lá ngón còn có 19α-hydroxygelsamydine và 2 indoid là 7-deoxygelsemide và 9-deoxygelsemide.
Các thành phần khác là coumarin (scopoletin); tinh đầu 0,5%; các acid béo (acid palmitic, acid stearic, acid oleic, acid linoleic); n-pentatriacontane; tanin (A.Y.T.cung và cs, 1993, Trung dược Từ Hải tập I, 1993; tập II, 1996; Lin Long Ze và cs, 1989; Takayma Hiramitsu và cs, 1994; Lan Long Ze và cs, 1996).
Cây lá ngón ở Việt Nam chứa koumine ở lá, vỏ thân, rễ, quả, hạt; gelsemine ở lá; sempervirine ở tất cả các bộ phận của cây (Bài giảng dược liệu, tập 2, 1998).



3. Tác dụng dược lý
Cây lá ngón – Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – Tập II – Đỗ Huy Bích cùng các tác giả khác (đã sửa chính tả):
Cây lá ngón rất độc. Trong dân gian, người ta cho rằng chỉ cần ăn 3 lá kèm theo một chén rượu là đủ làm chết một người sau vài giờ. Các chất độc chủ yếu gồm gelsemine, koumine, kouminidine, kouminicine. Độc nhất là rễ rồi đến lá và hoa, thân và quả; thân già độc hơn thân non. Ở Trung Quốc, nước sắc các bộ phận của cây lá ngón được xác định LD50 trên chuột nhắt trắng với kết quả như sau: LD50 của rễ là 0,079 g/kg; lá 0,225 g/kg; hoa 0,458 g/kg; thân già 1,309 g/kg; thân non 1,830 g/kg và quả 1,275 g/kg. Ở Việt Nam, theo Hoàng Như Tố, thí nghiệm trên chuột nhắt trắng LD50 của rễ (chiết bằng cồn 90o) là 102 mg/kg, lá tươi (chiết bằng nước) 600 mg/kg, lá khô (chiết bằng nước) 200 mg/kg, lá khô (chiết bằng cồn 70o) 150 mg/kg. Theo tài liệu nước ngoài, trong các alkaloid, kouminicine rất độc, có liều gây chết tối thiểu đối với thỏ là 0,8 mg/kg. Còn alkaloid toàn phần của cây được xác định LD50 trên một số súc vật sau: Đối với chuột nhắt trắng bằng phương pháp tiêm tĩnh mạch đuôi, LD50 là 1,113 mg/kg, còn tiêm phúc mạc là 1,235 mg/kg, đối với chuột cống trắng tiêm phúc mạc LD50 là 1,024 mg/kg, đối với thỏ tiêm tĩnh mạch vành tai LD50 là 2,14 mg/kg.
Triệu chứng ngộ độc lá ngón là khát nước, sốt, đau rát họng, đau bụng, nôn mửa, tiếp theo là hoa mắt, răng cắn chặt, sùi bọt mép, thân nhiệt hạ, huyết áp hạ, cuối cùng chết do ngừng hô hấp. Nếu phát hiện sớm, phương pháp giải độc là thải chất độc ra ngoài cơ thể bằng cách làm cho nạn nhân nôn mửa, tiến hành rửa dạ dày, tiêm truyền huyết thanh mạn ngọt, giữ ấm cơ thể và điều trị triệu chứng như huyết áp hạ (tiêm ephedrine), khó thở (tiêm niketamid), đồng thời cho thở oxy hoặc làm hô hấp nhân tạo.
Thí nghiệm trên súc vật đã xác định cơ chế tác dụng của alkaloid lá ngón là tác động vào hệ thống men hô hấp gây nên rối loạn trong tế bào, dẫn tới tình trạng thiếu oxy nghiêm trọng, gây co giật và liệt cơ. Các thuốc ngăn cản sự ức chế men và bảo vệ men như chất ATP có thể dùng để ngăn ngừa và điều trị ngộ độc lá ngón. Chất ATP làm giảm tỷ lệ chết của chuột nhắt từ 52% xuống 25% và cứu được tất cả thỏ đã bị ngộ độc bằng liều gây chết của lá ngón. Ngoài ra, lá ngón còn có một số tác dung dược lý như sau:
– Đối với hệ tim mạch: Alkaloid toàn phần của cây lá ngón đối với tim ếch có lập và tại chỗ có tác dụng ức chế sức co bóp cơ tim, đồng thời làm giảm nhịp tim và tốc độ dẫn truyền các xung. Chất gelsemine có tác dụng ức chế bộ phận cảm nhận M.cholin, nên có khả năng ức chế phản xạ hạ huyết áp do kích thích dây thần kinh phế vị hoặc do tiêm acetylcholin gây nên.
– Đối với hệ thống máu: Alkaloid toàn phần của cây lá ngón thí nghiệm trên chuột nhắt trắng với liều 0,15 – 0,41 mg/kg/ngày, tiêm xoang bụng trong 7 ngày liên tiếp, có tác dụng làm tăng số lượng hồng cầu, protein và globulin trong huyết thanh, đối với hồng cầu có tác dụng bảo vệ nhất định. Dùng với liều 0,41 mg/kg ở những động vật bị chiếu xạ có tác dụng làm tăng thể trọng và tăng cường tác dụng bảo vệ chuột được sống sót (25%).
– Các tác dụng khác: Chất gelsemine trên chuột nhắt trắng có tác dụng giảm đau, nhưng liều điều trị và liều gây độc rất gần nhau, nên rất khó sử dụng trong điều trị, mặc dầu đã có tài liệu đề cập đến việc sử dụng gelsemine chữa đau dây thần kinh. Trên tiêu bản ruột non và tử cung cô lập của thỏ, gelsemine dùng với liều bé có tác dụng kích thích, liều lớn gây ức chế. Cây lá ngón và gelsemine còn có tác dụng làm giãn đồng tử.
Công dụng của lá ngón
Ở Việt Nam, cây lá ngón không được dùng làm thuốc mà chỉ dùng như một chất độc đầu độc hoặc dùng nhầm bị ngộ độc.
Ở Bắc Mỹ và Trung Quốc, lá ngón là thuốc giảm đau, nhưng cũng rất ít được dùng.