Độ hoàn thiện nội dung: 70%.
Cây hoàng bá chuẩn hàng sẵn sàng trao tay khách. Nhanh tay liên hệ 0966.446.329 để được tư vấn miễn phí cách đặt hàng.
Cây hoàng bá hay hoàng nghiệt, tên tiếng Anh là Amur cork tree (danh pháp khoa học là Phellodendron amurense Rupr.) là một loài thực vật có hoa trong họ Cửu lý hương (hay họ Cam) Rutaceae. Vị thuốc hoàng bá chính là vỏ thân đã được cạo sạch lớp vỏ ngoài sau đó đem phơi hoặc sấy khô của cây hoàng bá.


Cụ thể, mảnh thuốc hơi cong, cạnh không đều, dài rộng không nhất định, dày 0,4 – 0,8cm. Mặt ngoài mầu vàng thẫm, vàng nâu hoặc nâu vàng nhạt, có những cạnh và rãnh dọc, những chấm nhỏ màu nâu. Bên trong màu vàng hoặc vàng xám nhẹ, dễ bẻ gẫy, mảnh bẻ gẫy chia thành từng lớp, có sợi màu vàng tươi. Hơi có mùi, vị rất đắng, nhấm thấy có chất dính và trơn (Dược Tài Học).
(!) Cần chú ý tránh nhầm lẫn vị thuốc hoàng bá thật với vị thuốc hoàng bá nam hay nam hoàng bá (thực chất là một số vỏ cây khác có màu vàng như vỏ cây núc nác). Hai vị thuốc có thành phần khác hẳn nhau nhưng lại có một số tác dụng giống nhau.
Cây vốn có tên cũ là cây hoàng nghiệt là vỏ màu của cây nghiệt. Sau này người ta dùng chữ bá thay cho chữ nghiệt để viết cho đơn giản (chữ Nho).
Mô tả cây hoàng bá
Hoàng bá (hoàng nghiệt) – Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi (đã sửa chính tả):
Hoàng bá là một cây to cao, có thể cao tới 20 – 25m, đường kính thân có thể đạt tới 70cm. Vỏ thân dày phân thành hai tầng rõ rệt. Tầng ngoài màu xám, tầng trong màu vàng. Lá mọc đối, kém gồm 5 – 13 lá chét nhỏ hình trứng dài, mép nguyên. Hoa tím đen, trong chứa 2 – 5 hạt. Ra hoa mùa hạ.
Cây hoàng bá – Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – Tập I – Đỗ Huy Bích cùng các tác giả khác (đã sửa chính tả):
Cây gỗ to, sống lâu năm, cao 10 – 17m hoặc hơn, rụng lá hàng năm. Vỏ thân dày, mặt ngoài sần sùi, màu xám đến nâu xám, mặt trong màu vàng. Cành non màu nâu tím. Lá kép mọc đối, gồm 5 – 13 lá chét dày, hình trứng thuôn hoặc hình bầu dục, gốc tròn, đầu thuôn nhọn, mép nguyên, mặt trên màu lục sẫm, có lông ở gân giữa, mặt dưới nhạt, nhiều lông hơn và phân bố đều; cuống lá kép và cuống lá chét đều có lông mềm.
Cụm hoa mọc ở ngọn thân hoặc đầu cành thành chùy dài 5 – 8cm; hoa đơn tính khác gốc, mẫu 5, màu vàng lục hoặc vàng nhạt. Quả thịt hình cầu, khi chín màu tím đen, có 2 – 5 hạt cứng. Mùa hoa: tháng 5 – 7; mùa quả: tháng 10 – 12.
Cây dễ nhầm lẫn:
Nhân dân và những người làm thuốc vẫn dùng vỏ cây núc nác (Oroxylum indicum (L.) Kurz) thay cho vỏ hoàng bá với tên hoàng bá nam.


Thông tin thêm
1. Phân bố và sinh thái
Hoàng bá (hoàng nghiệt) – Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi (đã sửa chính tả):
Vị hoàng bá thật hiện còn phải nhập. Tại Trung Quốc, hoàng bá mọc ở Hắc Long Giang, Hà Bắc, Tứ Xuyên, Vân Nam, Quý Châu.
Tại nước Nga, hoàng bá mọc ở nhiều vùng Siberia. Mấy năm gần đây chúng ta đã xin được hạt và bắt đầu trồng thí nghiệm. Sơ bộ thấy cây mọc khỏe, tốt. Nhưng chưa đưa ra trồng quy mô lớn.
Vỏ thân thường hái vào mùa hạ, cạo sạch vỏ ngoài, chỉ còn lớp trong dày chừng 11cm, sau đó cắt thành từng miếng dài 9cm, rộng 6cm, phơi khô. Loại tốt có màu vàng tươi rất đẹp, vị rất đắng.
Cây hoàng bá – Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – Tập I – Đỗ Huy Bích cùng các tác giả khác (đã sửa chính tả):
Hoàng bá là cây của vùng ôn đới ẩm, phân bố chủ yếu ở khu vực Đông và Đông – Bắc Á, bao gồm các nước Nga, Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản. Cây thường mọc lẫn trong các kiểu rừng cây lá rộng, dọc theo thung lũng sông Amur và Bureya, bắt nguồn từ phía nam của vùng Viễn Đông Nga. Hoàng bá được trồng nhiều ở Trung Quốc và Nhật Bản.
Ở Việt Nam hoàng bá được nhập từ Trung Quốc vào những năm 1962, 1963. Lúc đầu, cây được trồng thử nghiệm ở Sa Pa (Lào Cai), sau đưa sang huyện Sìn Hồ (Lai Châu); Tam Đảo (Vĩnh Phúc); Bá Thước (Thanh Hóa) … Cây thích nghi với vùng có khí hậu ẩm mát của vùng nhiệt đới núi cao (1000 – 1600m); nhiệt độ trung bình 15 – 18oC, lượng mưa 2000 – 2800mm/năm. Tính đến năm 1995, riêng ở Sa Pa đã có hơn 3000 cây hoàng bá, từ 6 tháng đến 32 năm tuổi, trong đó có khoảng 100 cây có khả năng cho hạt giống hàng năm.
Hoàng bá là cây gỗ mọc nhanh, ưa sáng và có thể hơi chịu bóng, nhất là lúc còn nhỏ. Cây sinh trưởng phát triển mạnh trong mùa xuân – hè; rụng lá vào mùa đông; lá non xuất hiện vào tháng 3. Sau khi ra lá non, cây bắt đầu có hoa. Quả chín vào cuối tháng 10 đến tháng 11. Tính trung bình một cây có thể thu được 3 – 5kg quả. Trong đó, có khoảng 32,7% số quả có 4 – 5 hạt; cứ 100kg quả cho 10 – 12kg hạt; mỗi kilôgam hạt có khoảng 47.000 hạt; khối lượng của 1.000 hạt là 21 – 50g. Hoàng bá trồng ở vùng cao có tác dụng phủ xanh; lấy gỗ làm củi và vỏ dùng làm thuốc.
2. Thành phần hóa học
Hoàng bá (hoàng nghiệt) – Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi (đã sửa chính tả):
Trong hoàng bá có chừng 1,6% berberin C20H18NO4+, một ít palmatin C21H21NO4+.
Ngoài ra trong hoàng bá còn những chất có tinh thể, không chứa nitơ như obacunone (Việt hóa: obakunon) C26H30O7 và obaculactone C26H30O8, chất béo, hợp chất sterolic.
Phản ứng hóa học thử hoàng bá: Lấy chừng 0,2g bột, thêm 2ml axit acetic, đun sôi nhẹ, lọc. Phần lọc thêm dung dịch iốt sẽ cho kết tủa màu vàng (berberin iodua).
Phản ứng Lieberman xác định sự có mặt hợp chất sterolic.
Bột hay mảnh vỏ soi ánh ngoại tím cho huỳnh quang màu vàng tươi.
Tinh dầu từ quả chứa myrcene (62,3 – 70,3%) và β-caryophyllene (6,8 – 10,5%). Tinh dầu từ lá chứa β-elemol (18,5%) và (Z)-β-ocimen (12,6%). Tinh dầu từ hoa chứa (Z)-β-ocimen (9,5%), β-elemol (9,4%), myrcen (7,8%) và nonacosane (7,7%) (Anna Lis et al.; 2004).
Amurensin, một tert-amyl alcohol dẫn xuất của kaempferol 7-O-glucoside, có thể tìm thấy ở P. amurense (Masao Hasegawa và Teruo Shirato; 1953).
Cây hoàng bá – Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – Tập I – Đỗ Huy Bích cùng các tác giả khác (đã sửa chính tả):
Thành phần chủ yếu trong vỏ hoàng bá là các alkaloid như berberine (1), palmatine (2), jatrorrhizine (3), phellodendrine (4), magnoflorine (5), candicine (6).
Ngoài ra, còn có obacunone (7), obaculactone, limonine (8) (TDTH III. 111, 121; Phytochemistry 1994, 35(1) 209 – 215). Các hợp chất phenolic gồm glucoside của 5,5′-dimethoxylariciresinol-2-(p-hydroxyphenyl) ethanol và N-methyl higenamine, lyoniresinol syringin, coniferin, syringaresinol-di-O-β-glucopyranoside, aldehyde sinapic-4-O-β-glucopyranoside, vanilodoside, methyl 5-O-feruloyl quinate; acid 3-O-feruloylquinic và dẫn xuất methyl este của nó (CA. 120, 1994, 265801q; CA. 124, 1996, 719v).
Trong lá hoàng bá, có phelamurin (??) (9) (1% trong lá tươi) và amurensin (10) (0,04% trong lá tươi), các chất flavon như phelodendroside (11) với aglycon phelamuretin, hyperin, pheloside (12), 2,3-dihydropheloside, phelatin và phelavin cũng đã được phân lập từ lá (Chinese Drugs of plant origin tập 3 – 760).
Quá hoàng bá chứa các limonoid, 2 chất mới được xác định cấu trúc là kihadalacton A và B cùng với 7 tirucallan triterpenoid là niloticin, dihydroniloticin, acetat niloticin, pissidinol A, hispidol B, bourjotinolon A và hispidon (Phytochemistry 1992, 31(4); CA. 111, 1989, 174449d).
Tinh dầu quả chứa myrcene va geraniol.
Hạt chứa các limonoid như limonine, obacunone, limonine-17-β-D-glucopyranoside và obacunon-17-β-D-glycopyranoside.
Trong rễ hoàng há, ngoài berberine, palmatine, magnoflorine, jatrorrhizine, người ta còn chiết được một alkaloid nhân indol là canthin-6-one (0,04%).


3. Tác dụng dược lý
Cây hoàng bá – Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – Tập I – Đỗ Huy Bích cùng các tác giả khác (đã sửa chính tả):
Tác dụng kháng khuẩn: Hoàng bá có tác dụng kháng khuẩn đối với nhiều vi khuẩn gram dương và gram âm. Dích chiết và nước sắc từ hoàng bá ức chế ở mức độ khác nhau đối với Staphylococcus aureus, Streptococcus hemolyticus, Bacillus diphtheriae, Bacillus anthracis, Bacillus subtilis, Shigella shigae, Shigella flexneri, còn đối với Enterococcus và Bacillus typhi thì ít tác dụng. So sánh với hoàng liên, tác dụng kháng khuẩn của hoàng bá yếu hơn. Thí nghiệm trên ống kính đối với trực khuẩn lao người (H37Rv) hoàng bá không có tác dụng ức chế trực tiếp nhưng có tác dụng làm giảm số lượng vi khuẩn. Trên chuột lang được gây nhiễm lao bò, berberin tiêm bắp thịt có tác dụng điều trị nhất định.
Tác dụng kháng nấm: Dịch chiết và nước sắc từ hoàng bá thí nghiệm trên ống kính có tác dụng ức chế một số nấm gây bệnh ngoài da.
Tác dụng kháng roi trùng: Nước sắc hoàng bá (10%) có tác dụng ức chế roi trùng âm đạo nhưng không mạnh.
Tác dụng hạ huyết áp: Trên động vật gây mê, hoàng bá tiêm tĩnh mạch hoặc tiêm phúc mạc đều có tác dụng hạ áp rõ rệt và kéo dài. Nước sắc hoàng bá tiêm phúc mạc với liều 12g/kg trên mèo gây mê, huyết áp hạ xuống còn bằng 60% trị huyết áp ban đầu. Cao lỏng hoàng bá tiêm phúc mạc với liều 2g/kg trên mèo gây mê cũng có tác dụng hạ huyết áp nhưng ảnh hưởng không rõ đối với nhịp tim.
Hoạt chất phellodendrine, tiêm tĩnh mạch với liều 0,3mg/kg trên chó, mèo, thỏ gây mê đều gây hạ huyết áp, cơ chế gây hạ áp có liên quan đến tác dụng làm liệt hạch thần kinh của hoạt chất. Ngoài ra từ hoàng bá người ta chiết tách được một chất có tác dụng kích thích thụ thể β (β-receptor), thí nghiệm trên chuột cống trắng tiêm tĩnh mạch với liều 24kg/kg gây hạ huyết áp đồng thời làm tăng nhịp tim.
Các tác dụng khác: Tinh dầu chiết từ quả hoàng bá và thành phần myrcene có trong tinh dầu thí nghiệm trên chuột nhắt trắng, cho vào dạ dày với liều 400 và 800mg/kg có tác dụng long đờm. Trên mô hình gây ho bằng phương pháp khí dung ammoniac, tinh dầu và hoạt chất myrcene cho chuột nhắt uống với liều 800mg/kg có tác dụng chống ho.
Phellodendrine có tác dụng ức chế thần kinh trung ương, sau khi dùng thuốc hoạt động tự nhiên và các phản ứng của chuột đều bị ức chế. Phellodendrine có tác dụng gây liệt cơ kiểu curare nhưng yếu, trên tiêu bản cô lập cơ thang bụng ếch có tác dụng ức chế co bóp do acetylcholin gây nên. Đối với hoạt động của ruột, trên hồi tràng cô lập thỏ, hoàng bá làm tăng biên độ co bóp, obacunone tăng cường cả trương lực và biên độ co bóp còn obaculactone lại ức chế hoạt động của ruột. Trên thỏ thực nghiệm có lỗ dò tuyến tụy, hoàng bá có tác dụng thúc đẩy sự phân tiết của tuyến tụy; obaculactone dùng với liều lớn (0,05 – 0,1g/kg) có tác dụng làm hạ đường huyết, obacunone không có tác dụng này. Ngoài ra, có báo cáo xác định hoàng bá có tác dụng bảo vệ tiểu cầu. Đối với bọ gậy, hoàng bá với nồng độ 10ppm sau 18 giờ tiếp xúc có khả năng diệt được 62%, và có tác dụng diệt ruồi.
Độc tính cấp: Cao lỏng hoàng bá trên chuột nhắt trắng, tiêm phúc mạc có LD50 = 2,7g/kg. Phellodendrine trên chuột nhắt trắng tiêm xoang bụng có LD50 = 69,5mg/kg. Tinh dầu từ quả hoàng bá trên chuột nhắt trắng cho vào dạ dày có LD50 = 6,68 ± 0,65 g/kg.
Dược liệu cây hoàng bá có tác dụng gì ?
Hoàng bá có vị đắng, tính hàn, vào 2 kinh thận và bàng quang, có tác dụng thanh nhiệt, táo thấp, tả hỏa, giải độc. Hoàng bá muối (hoàng bá phun nước muối, sao vàng) có tác dụng tư âm, giáng hỏa.
Theo y học cổ truyền, hoàng bá được dùng chữa nhiệt lỵ, tiêu chảy, hoàng đản, đái đục, di mộng tinh, đái ra máu, trĩ, xích bạch đới, cốt chưng lao nhiệt (triệu chứng chủ yếu của bệnh lao), mắt sưng đỏ, loét miệng lưỡi, viêm âm đạo, sưng tinh hoàn, đái đường. Liều dùng hàng ngày: 4,5 – 10g; dưới dạng thuốc sắc hoặc hoàn tán. Tùy trường hợp bệnh, hoàng bá được dùng sống, sao cháy hoặc tẩm rượu sao. Thường dùng hoàng bá phối hợp với các vị thuốc khác. Berberin được dùng ngoài để rửa mặt, đáp tại chỗ chữa mụn nhọt, vết thương.
Trong y học hiện đại, các chế phẩm từ hoàng bá được dùng điều trị thực nghiệm cho các bệnh:
Viêm màng não: Dùng cao lỏng hoàng bá 1:1 cho trẻ em dưới 3 tuổi trong vòng 6 giờ uống uống 3ml, trên 3 tuổi 4 – 6ml, người lớn 6 – 10ml. Điều trị cho 20 bệnh nhân với kết quả khả quan. Bệnh nhẹ, sau một ngày dùng thuốc đã đỡ, trung bình sau 8 ngày điều trị, các triệu chứng lâm sàng đã hết, sau 10 ngày kiểm tra dịch não tủy trở lại bình thường. Trong quá trình điều trị, ngoài việc dùng hoàng bá vẫn tiến hành tiêm truyền dịch như thường lệ. Nếu bệnh nhân nôn nhiều, dùng 100ml nước sắc hoàng bá 35g và cam thảo 12g thụt vào trực tràng, lần đầu 50ml, các lần sau mỗi lần 25ml. Cứ 6 giờ thụt một lần.
Lỵ trực tràng: Dùng cao đặc hoàng bá (0,13g cao = 1g dược liệu) điều trị cho 31 bệnh nhân với liều mỗi lần uống 0,4g cao, ngày 3 – 4 lần. Sau 4 – 5 ngày điều trị, toàn bộ bệnh nhân đều khỏi. Trung bình sau 2,3 ngày điều trị bệnh nhân hạ sốt, sau 3,3 ngày hết hiện tượng mót rặn, sau 4 ngày hết đau bụng và đại tiện trở về bình thường, sau 4,4 ngày cấy phân trở về âm tính.
Viêm phổi: Dùng dung dịch tiêm phellodendrine 0,2% tiêm bắp thịt, mỗi lần 3ml, cứ khoảng 8 giờ tiêm một lần, khi đã hết sốt, giảm xuống tiêm 2 lần/ngày. Đã dùng điều trị cho bệnh nhi thể nhẹ, kết quả trung bình sau 9 ngày điều trị khỏi hoàn toàn.
Lao phổi: Dùng dung dịch tiêm phellodendrine 0,2% điều trị cho 30 bệnh nhân lao phổi, tiêm bắp thịt 3ml/lần, ngày 2 lần, mỗi đợt điều trị 2 tháng, thấy có 24 bệnh nhân có tiền bộ rõ rệt, 6 bệnh nhân không có kết quả.
Viêm âm đạo do roi trùng: Mỗi buổi tối sau khi rửa sạch âm đạo, đặt 1 viên đạn có 0,5g phellodendrine vào âm đạo. Trong 14 trường hợp điều trị có 13 trường hợp khi xét nghiệm roi trùng thấy âm tính, 1 trường hợp không kết quả.
Viêm tai giữa có mủ: Dùng nước oxy già rửa sạch bộ phận tai ngoài, sau đó nhỏ nước sắc hoàng bá 4 – 5 giọt, nằm nghiêng trong vòng 10 – 15 phút. Đã điều trị cho 76 bệnh nhân với kết quả là 59 trường hợp khỏi, 13 trường hợp có tiến bộ và 4 trường hợp không có kết quả.
Viêm xoang hàm mạn tính: Sau khi rửa sạch xoang bị viêm, bơm từ từ dung dịch pha loãng cao hoàng bá 30%. Cứ cách 4 ngày, bơm một lần. Đã điều trị cho 10 bệnh nhân, kết quả khỏi 8, có tiến bộ 2.
Bài thuốc có hoàng bá:
Chữa di tinh đái đục: Hoàng bá sao 640g, vỏ hến nung 640g. Tán nhỏ thành bột mịn. Ngày uống hai lần, mỗi lần một thìa cà phê (Hải Thượng Lãn Ông).
Chữa di mộng tinh: Hoàng bá 60g, thục địa 40g, thiên môn 40g, đảng sâm 40g, sa nhân 30g, cam thảo 10g. Tất cả phơi khô tán bột, trộn với mật ong, làm viên bằng hạt ngô. Ngày uống 3 lần, mỗi lần 30 viên với nước nóng trước bữa ăn độ một giờ (Bệnh viện Việt Trung – Hà Nội).
Chữa tiêu chảy ở trẻ em: Dùng viên tiêu chảy “B” – Hoàng bá 125g, ngũ vị tử 42,5g, ngũ bội tử 37,5g, bạch phàn 25g. Tán bột mịn luyện với hồ làm thành viên bằng hạt ngô. Trẻ em dưới 1 tuổi, ngày uống 4 – 6 viên, chia làm 3 – 4 lần, hòa với nước đun sôi để nguội, 2 – 3 tuổi ngày uống 6 – 8 viên, 4 tuổi trở lên uống 9 – 12 viên.
Chữa viêm gan cấp tính, sốt, bụng trướng, đau vùng gan, tiểu tiện đỏ: Hoàng bá 16g, mộc thông, chi tử, chỉ xác đại hoàng hay chút chít, nọc sởi, mỗi vị 10g. Sắc uống mỗi ngày một thang.
Chữa tiêu hóa kém, hoàng đản do viêm đường mật: Hoàng bá 14g, chi tử 14g, cam thảo 6g. Sắc với 600ml nước còn 200ml, chia 3 lần uống trong ngày.
Chữa lở miệng loét lưỡi: Hoàng bá cắt thành từng mẩu nhỏ, ngậm. Có thể nuốt nước.
Chữa sốt xuất huyết: Hoàng bá, ngưu tất, tri mẫu, sinh địa, huyền sâm, mạch môn, hạt muồng (sao), đan sâm, đơn bì xích thược, cỏ nhọ nồi, trắc bá (sao), huyết dụ; mỗi vị 10 – 16g. Sắc uống ngày một thang.
Cách trồng hoàng bá
Cây hoàng bá – Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – Tập I – Đỗ Huy Bích cùng các tác giả khác (đã sửa chính tả):
Hoàng bá được nhân giống bằng hạt. Quả chín được hái về để thành đống hoặc cho vào thùng (không nén chặt), phủ rơm rạ ủ trong 10 – 15 ngày. Sau đó, dùng tay bóp cho hạt rơi ra, đem đãi sạch rồi phơi (không được sấy) trong râm hay nắng nhẹ đến khô và bảo quản trong lọ nút kín, đến tháng 3 – 4, đem gieo trong vườn ươm hoặc trong bầu.
Đất vườn ươm cần chọn đất tốt, tiện tưới tiêu, cày bừa kỹ, đập nhỏ, lên thành luống cao 15 – 20cm, rộng 70 – 80cm. Trên mặt luống đánh rạch sâu 10 – 15cm, cách nhau 30cm, theo chiều ngang hoặc chiều dọc luống. Hạt được ngâm nước qua 8 – 10 giờ, vớt ra, rửa sạch, để ráo rồi gieo vào rạch. Cần 400 – 500g hạt để gieo cho 100m2 vườn ươm. Gieo xong, dùng đất bột hoặc phân rác mục phủ một lớp dày độ 1cm, sau đó dùng rơm rạ phủ lên trên và tưới giữ ẩm thường xuyên. Hạt nảy mầm sau khoảng 30 – 35 ngày. Lúc này cần dỡ bỏ rơm rạ. Khi cây con cao 7 – 10cm, bắt đầu tỉa giặm. Nên tỉa làm nhiều đợt, đến khi cây cao 15 – 20cm thì tỉa giặm lần cuối cùng, giữ khoảng cách giữa các cây 10 – 12cm và dùng nước phân hoặc đạm pha loãng để tưới thúc cho cây. Từ đây đến khi cây phủ kín luống, có thể tưới thúc thêm 2 – 3 lần kết hợp với làm cỏ, xới xáo. Về mùa đông, cây rụng lá, cần vun gốc kín rễ.
Sang tháng 2 – 3, khi cây con được khoảng 1 năm tuổi, có thể bứng đi trồng. Tuy nhiên, ở Sa Pa người ta thường trồng từ tháng 12 đến tháng 1 năm sau, khi cây còn trong trạng thái ngủ đông; sang mùa xuân khi thời tiết ẩm và ấm dần, cây đã bén rễ và sinh trưởng được ngay. Chú ý khi bứng đi trồng không làm xây xát, đứt rễ. Nên chọn các thung lũng, bìa rừng hoặc ven đường, ven suối có đất tốt, thoát nước, khuất gió, đào hố sâu 50 – 60cm, rộng 60 – 70cm với khoảng cách 3 – 4 m để trồng. Mỗi hố bón lót 10 – 15kg phần chuồng mục, trộn đều phân với đất rồi đặt một cây giống. Trồng xong, cần đảm bảo đủ ẩm trong khoảng 15 – 20 ngày. Khi cây đã bén rễ, chỉ cần tưới nếu thời tiết quá khô hạn.
Năm đầu, cần làm cỏ, vun gốc 3 – 4 lần; năm thứ hai và thứ ba, làm cỏ vun gốc 2 lần vào mùa hạ và mùa thu. Sau đó, cứ 2 – 3 năm làm cỏ một lần.
Hoàng bá ít bị sâu bệnh hại. Cây trồng khoảng 10 năm có thể thu hoạch vỏ. Vỏ được thu vào tháng 3 – 5. Có thể chặt hạ cả cây để bóc lấy toàn bộ vỏ thân, cành hoặc giữ nguyên cây, định kỳ bóc lấy một phần vỏ. Vỏ thu về đem cạo sạch lớp xốp ở ngoài (cho đến lớp có màu vàng tươi là được), ép cho phẳng và phơi đến khô.
Bộ phận dùng:
Vỏ thân hoặc vỏ cành, thu hoạch vào tháng 3 – 6, cạo bỏ lớp bần, phơi hoặc sấy khô. Khi dùng rửa sạch, ủ mềm, rồi chế biến sao tẩm như sau:
– Hoàng bá phiến: Đem dược liệu ủ mềm thái phiến chéo rộng 3 – 5mm, dài 5 cm.
– Hoàng bá sao: Cho hoàng bá phiến vào nồi, sao nhỏ lửa đến khi có màu vàng đậm. Hoặc đun nồi nóng già (120oC), đổ dược liệu vào, đảo đều, sao cho có màu vàng đậm.
– Hoàng bá thán: Cho hoàng bá phiến vào nồi, sao đến khi toàn bộ bên ngoài đen đều. Để nguội, phun ít nước để trừ hỏa độc.
– Hoàng bá tẩm rượu: Hoàng bá 10kg, rượu 2kg trộn đều rượu với hoàng bá, ủ 30 phút cho ngấm hết, dùng lửa nhỏ sao tới khô. Hoặc sao hoàng bá phiến tới nóng già, rồi vẩy rượu vào trộn đều, sao nhỏ lửa cho khô.
– Hoàng bá tẩm muối: (Hoàng bá 10kg, muối ăn 100g) dùng nước pha muối để có 1 lượng thích hợp vừa đủ trộn đều vào hoàng bá. Sau khi để 30 phút cho nước muối ngấm đều, dùng lửa nhỏ sao tới khô. Cũng có thể sao hoàng bá phiến đến nóng già rồi vẩy nước muối vào trộn đều, sao khô.
Vậy mua cây hoàng bá uy tín chất lượng ở đâu ?
Địa chỉ: Ngách 68/45, ngõ 68, đường Nguyễn Văn Linh, phường Long Biên, thành phố Hà Nội.
- Quý khách xin vui lòng liên hệ với Cây cảnh Hải Đăng để được các chuyên viên của chúng tôi tư vấn lựa chọn sản phẩm cây giống hoàng bá phù hợp.
- Chúng tôi sẽ chụp ảnh sản phẩm cho quý khách nếu có yêu cầu.
- Chúng tôi sẽ kiểm tra kỹ hàng hóa đảm bảo chất lượng và đúng quy cách trước khi giao.
- Quý khách ở xa vui lòng tiến hành chuyển khoản trước hoặc đặt cọc trước. Nếu quý khách ở nội thành có thể áp dụng ship nhanh với chi phí 50k một lần ship.
Tài liệu tham khảo
- Hoàng bá (hoàng nghiệt) – Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi.
- Cây hoàng bá – Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – Tập I – Đỗ Huy Bích cùng các tác giả khác.
- Anna Lis et al. (2004). “Chemical composition of the essential oils from fruits, leaves and flowers of the Amur cork tree (Phellodendron amurense Rupr.)”. Flavour and Fragrance Journal. 19(6): 549-553.
- Masao Hasegawa và Teruo Shirato (1953). “Two New Flavonoid Glycosides from the Leaves of Phellodendron amurense Ruprecht”. Journal of the American Chemical Society. 75(22): 5507-5511.








