Trạch tả hay mã đề nước, tên tiếng Anh là European water-plantain, common water-plantain, mad-dog weed (danh pháp khoa học là Alisma plantago-aquatica L.), là một loài thực vật có hoa thuộc họ Trạch tả Alismataceae.
Trạch tả (Rhizoma Alismatis) là thân củ chế biến, phơi hay sấy khô của cây trạch tả (trạch = đầm, tả = tát cạn, vì vị này thông tiểu tiện rất mạnh như tát cạn nước đầm ao).


Mô tả cây giống trạch tả
Trạch tả (mã đề nước) – Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi (đã sửa chính tả):
Cây trạch tả mọc ở ao và ruộng, cao 0,3 – 1m. Thân rễ trắng, hình cầu hay hình con quay, thành cụm, lá mọc ở gốc hình trứng thuôn, hay lưỡi mác, phía cuống hơi hẹp lại hình tim. Hoa họp thành tán có cuống dài đều, lưỡng tính có 3 lá; đài màu lục, 3 cánh hoa trắng hay hơi hồng, nhị nhiều lá noãn rời nhau, xếp xoắn ốc. Quả là một đa bế quả.
Cây trạch tả – Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – Tập II – Đỗ Huy Bích cùng các tác giả khác (đã sửa chính tả):
Cây thảo, cao 40 – 50cm. Thân rễ hình cầu hoặc hình con quay, nạc, màu trắng. Lá có cuống dài, bẹ to mọc ốp vào nhau và xòe ra như hình hoa thị, phiến lá hình trái xoan hay hình trúng, mép nguyên lượn sóng, gân lá 5 – 7 hình cung.
Cụm hoa moc trên một cán tháng dài có khi đến 1m thành chùy có nhiều vòng hoa xếp thành tầng nhỏ dần về phía ngon, mỗi tầng lại phân nhánh thành những chùy nhỏ, hoa lưỡng tính, màu trắng hay hồng; đài có 3 răng màu lục, tồn tại đến khi thành quả; tràng hoa 3 cánh có một cựa màu vàng nhạt rất mỏng và rụng sớm; nhị 6 – 9, dẹt; bầu nhiều ô xếp thành một vòng, mỗi ô có một noãn, vòi nhụy mảnh dễ rụng.



Thông tin thêm
1. Phân bố, thu hái và chế biến
Trạch tả (mã đề nước) – Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi (đã sửa chính tả):
Cây này mọc hoang ở những nơi ẩm ướt ở Lào Cai, Lai Châu, Cao Bằng, Lạng Sơn. Hiện được trồng ở nhiều tỉnh như Nam Hà, Thái Bình, Hà Tây, Hoà Bình … Hái lấy rễ củ, rửa sạch, cao hết rễ nhỏ, phơi hoặc sấy khô.
Cây trạch tả – Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – Tập II – Đỗ Huy Bích cùng các tác giả khác (đã sửa chính tả):
Chi Alisma L. có khoảng 10 loài, phân bố rải rác từ vùng nhiệt đới đến vùng cận nhiệt đới và ôn đới ấm. Hiện đã biết có 2 loài được dùng làm thuốc là trạch tả (A. plantago-aquatica L.) và loài A. canaliculatum A.Braun & C.D.Bouché có ở Triều Tiên.
Trạch tả có nhiều ở Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên và Việt Nam. Đi đôi với quần thể trạch cả trồng ở nhiều điểm thuộc các nước trên, người ta còn tìm thấy cây mọc tự nhiên trên các vùng ruộng hoặc ao hồ. Ở Việt Nam, trạch tả chỉ thấy trồng ở các tỉnh miền Bắc như Thái Bình, Hà Nam, Hà Tây, Hải Dương, Hưng Yên. Về nguồn gốc của cây trồng này, không rõ được thuần hóa từ cây moc tự nhiên hay lấy giống từ nước ngoài.
Trạch tả là cây thủy sinh, có phần thân rễ sống ngập trong bùn, toàn bộ phần thân lá vươn khỏi mặt nước. Vì vậy chiều dài của lá (cuống lá là chính) phụ thuộc vào mức độ bị ngập nước. Hoa trạch tả phải ở trên mặt nước mới thụ phấn được. Cây tái sinh chủ yếu từ hạt, phát tán nhờ nước. Sau mùa hoa quả, phân trên mặt nước tàn lụi. Trạch tả có khả năng đẻ nhánh khỏe từ thân rễ.
2. Thành phần hoá học
Trạch tả (mã đề nước) – Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi (đã sửa chính tả):
Trong trạch tả, người ta mới phân tích thấy được tinh dầu, chất nhựa 7%, chất protid và 23% chất bột. Thành phần hoạt chất chưa rõ. Dược điển Triều Tiên quy định: Độ ẩm dưới 15%, tro dưới 7%, tro không tan trong HCl dưới 2%, cao rượu trên 7%.
Cây trạch tả – Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – Tập II – Đỗ Huy Bích cùng các tác giả khác (đã sửa chính tả):
Thân rễ trạch tả chứa tinh dầu, chất nhựa 7%, protid, tinh bột 23% (Đỗ Tất Lợi, 1999).
Cum hoa có nhiều phytohormone (CA. 125:190.646k).
Thân rễ A. plantago-aquatica subsp. orientale (Sam.) Sam., chứa các triterpene alisol A, alisol A monoacetate, alisol B, alisol B monoacetate, alisol C monoacetate, epi-alisol A.
Ngoài ra, trạch tả còn chứa alismol, alismoxide, alismalactone 23-acetate, alismacetone A, β-sitosterol-3-O-stearate, tricosan, β-sitosterol, acid stearic, glyceryl-1-stearate, daucosterol-6′-O-stearate, emodin, alizexol A, các sulfoorientalol A, B, C, D.
…
Theo Kimura Hiromi và cs, 1990, alismol và 10-hydroxyalismol chiết xuất từ thân rễ đều có tác dụng trị các rất loạn gan (CA 117:118.490x).
Cũng theo Kimura Hiromi và cs, 1990, 16-cetoalisol A hoặc 13,17-epoxyalisol A chiết xuất từ A. plantago-aquatica subsp. orientale đều có tác dụng trị rối loạn gan (CA 117:76.469q).
Tomoda Masashi và cs, 1994 đã phân lập được một polysaccharide gọi là alisma PH hao gồm L-arabinose, D-galactose, acid D-glucuronic theo tỷ lệ 4:9:2 có thêm vài nhóm O-acetyl (CA 121:99.314g).
Cũng theo Tomoda Masashi và cs., 1993, A. plantago-aquatica subsp. orientale còn có một polysaccharide acid gọi là alisman PIII F bao gồm L-arabinose-D-galactose-L-rhamnose-D-acid galacturonic-acid glucuronic theo tỷ lệ 1:5:3:8:2. (CA 121:26466y).


3. Tác dụng dược lý
Trạch tả (mã đề nước) – Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi (đã sửa chính tả):
Trong chuyên san của Viện nghiên cứu tiền Bắc Bình có báo cáo: Bắt đầu, tiêm kali nitrat cho thỏ để gây viêm thận đưa đến hiện tượng ứ đọng ure và cholesterin trong máu, sau đó tiêm thuốc trạch tả. Kết quả là lượng ure và cholesterin trong máu giảm xuống.
Cho người mạnh khỏe, uống nước sắc trạch tả, thấy lượng nước tiểu, lượng ure và lượng natri clorua bài tiết đều tăng lên.
Trạch tả (mã đề nước) – Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi (đã sửa chính tả):
Tác dụng lợi tiểu: Nước sắc trạch tả với liều 25g/kg cho thẳng vào dạ dày và cao lỏng với liều 2g/kg tiêm xoang bụng trên chuột cống trắng bình thường, thể hiện tác dụng lợi tiểu rõ rệt. Có báo cáo cho rằng trạch tả thu hoạch vào các mùa khác nhau và bộ phận dùng khác nhau thì hiệu quả lợi niệu cũng không giống nhau. Trạch tả thu hoạch vào mùa đông có tác dụng lợi tiểu mạnh, còn thu hoạch vào mùa xuân thì kém hơn. Rễ con trạch tả thu hoạch vào mùa đông có tác dụng lợi tiểu yếu, còn thu vào mùa xuân thì không có tác dung. Phương pháp bào chế khác nhau cũng dẫn đến hiệu quả lợi niệu không giống nhau. Trạch tả dùng sống hoặc nướng với rượu đều có tác dụng lợi tiểu, còn trạch tả muối không có tác dụng. Tuy vậy, trong “ngũ linh tán” gồm trạch tả, phục linh, trư linh, bạch truật, quế chi với tỷ lệ 4:3:3:2:1 thì dùng trạch tả sống hoặc muối đều thể hiện tác dụng lợi tiểu. Người khỏe mạnh uống nước sắc trạch tả thì lượng bài tiết nước tiểu, urê và Na+ tăng, còn trên thỏ uống trạch tả tác dụng rất yếu, nhưng nếu dùng dạng cao lỏng bằng đường tiêm xoang bụng lại có tác dụng lợi tiểu. Tác dụng lợi tiểu của trạch tả có liên quan đến hàm lượng muối kali cao (147,5mg%) tồn tại trong dược liệu.
Ảnh hưởng đối với chuyển hóa mỡ: Thí nghiệm trên thỏ gây lipid máu cao, thành phần tan trong dầu của trạch tả trộn với thức ăn hàng ngày với tỷ lệ 0,5% có tác dụng hạ lipid máu và chống xơ vữa động mạch một cách rõ rệt. Trên chuột cống trắng có lipid máu tăng cao thực nghiệm, các chất alisol A và alisol A, B, C monoacetate trộn trong thức ăn hàng ngày với tỷ lệ 0,05 – 0,1% đều có tác dụng hạ cholesterol máu đạt 50%. Cơ chế làm hạ cholesterol máu của trạch tả chưa được xác định đầy đủ. Thí nghiệm bằng phương pháp đồng vị phóng xạ cho thấy chất alisol A có tác dụng ức chế quá trình ester hóa cholesterol ở ruột non chuột nhắt trắng đồng thời làm giảm tỷ lệ hấp thu cholesterol ở ruột đạt 34%. Trên thỏ có chế độ ăn giàu cholesterol và lipid, trạch tả có tác dụng làm hạ lượng lipid ở gan. Đổi với chuột cống trắng có chế độ ăn thiếu protein dẫn đến gan nhiễm mỡ, trạch tả có tác dụng điều trị rõ rệt. Trên lâm sàng ở những bệnh nhân có lipid máu tăng, hàng ngày uống viên trạch tả với liều 4,2g/người, dùng từ 2 – 4 tuần lễ có tác dụng làm hạ cholesterol, β-lipoprotein và triglyceride trong máu. Nước sắc trạch tả thí nghiệm trên chuột cống trắng với liều 20g/kg cho thẳng vào dạ dày dùng trong 7 tuần lễ có tác dụng làm giảm lượng triglyceride trong máu, lượng mỡ ở các tạng phủ và giảm trọng lượng của chuột béo phì do dùng glutamat natri (MSG).
Tác dụng chống viêm: Nước sắc trạch tả dùng với liều 20g/kg bằng đường cho thẳng vào dạ dày, thí nghiệm trên chuột nhắt trắng có tác dụng ức chế sưng phù ở tai chuộc do dimethyl – benzen gây nên, đồng thời ức chế sự tăng sinh của tổ chức u hạt ở chuột cống trắng trong nghiệm pháp cấy dưới da viên bông. Trên thỏ gây viêm thận thực nghiệm bằng cách tiêm dưới da nitrat natri, trạch tả làm giảm lượng ure và cholesterol trong máu.
Các tác dụng khác: Cao lỏng trạch tả trên chó gây mê, tiêm tĩnh mạch có tác dụng hạ huyết áp. Trên thỏ, cao trích tả với liều 6g/kg tiêm dưới da, trong vòng 5 giờ sau khi dùng thuốc xuất hiện đường huyết hạ, nhưng nếu dùng nước sắc thì không có tác dụng trên. Thí nghiệm trên ống kính, trạch tả có tác dụng ức chế sự phát triển của trực khuẩn lao.
Ngoài các tác dụng trên, các alisol A, B, C monoacetate còn có tác dụng bảo vệ gan, chống các tổn thương gan do tetrachloride carbon gây nên.
Độc tính: Dịch chiết bằng methanol của trạch tả trên chuột nhắt trắng bằng đường tiêm tĩnh mạch và tiêm xoang bụng có LD50 = 0,98g và 1,27g/kg. Thí nghiệm dài ngày cho bột trạch tả vào thức ăn chuột cống trắng với tỷ lệ 1% dòng trong 2 tháng liền không có biểu hiện ngộ độc.

Công dụng và liều dùng trạch tả
Chủ yếu làm thuốc thông tiểu chữa bệnh thủy thũng trong bệnh viêm thận. Ngày dùng từ 10 đến 30g dưới dạng thuốc sắc hoặc dùng riêng hay phối hợp với các vị thuốc khác. Có người nói là có thể chữa bệnh sỏi thận và lợi sữa.
Đơn thuốc có trạch tả:
Chữa thủy thũng: Trạch tả 40g, bạch truật 40g, tán nhỏ, mỗi lần uống 10 – 12g. Dùng nước sắc phục linh để chiêu thuốc.
Phục linh trạch tả thang: Trạch tả 6g, phục linh 6g, bạch truật 4g, cam thảo 2g, quế chỉ 2g, nước 600ml. Sắc còn 200ml chia 3 lần uống trong ngày. Cũng chữa bệnh thủy thũng.
Cách dùng trạch tả
Cây trạch tả – Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – Tập II – Đỗ Huy Bích cùng các tác giả khác (đã sửa chính tả):
Trạch tả được trồng trên ruộng nước, hồ, ao có lớp bùn dày và có điều kiện tưới, tiêu chủ động ở một số tỉnh miền Bắc. Đất cần cày, bừa, làm cỏ, sục bùn, bón lót mỗi hecta 25 – 30 tấn phân chuồng, 500 – 600kg supe lân, 150 – 200kg sulfat kali hoặc 1,5 tấn tro bếp, san phẳng.
Cây được nhân giống bằng bạt. Theo kinh nghiệm, hạt giống lấy từ cây 2 năm có chất lượng tốt hơn. Cách làm như sau: Cây nhánh tách từ cây mẹ vào tháng 9 – 10 được trồng và chăm sóc như cây lấy củ, nhưng trồng thưa hơn (40 x 30cm). Khi quả chín, cần thu ngay, nếu để muốn, hạt sẽ rụng. Đem quả phơi trên nong, nia, dập lấy hạt, sàng sảy, tiếp tục phơi đến khô, bảo quản nơi khô ráo. Một sào Bắc Bộ (360m2) có thể cho 13 – 16kg hạt.
Thời vụ gieo hạt ở miền núi vào tháng 6 – 7, ở đồng bằng vào tháng 7 – 8. Hạt được gieo ươm trên luống bùn. Trước khi gieo, ngâm hạt vào nước 24 giờ, lấy ra để ráo, trộn với cát hoặc tro để gieo cho đều. Mỗi mét vuông cần gieo 2 – 2,5g hạt. Gieo xong, tháo nước từ từ cho ngập 2 – 3 cm. Khi có mưa to, cần chờ tạnh mưa mới tháo bớt nước để tránh trôi hạt và dập cây con. Có thể tưới nước phân chuồng, nước giải pha loãng hoặc đạm 2%, cho cây mau lớn, cứ 10 – 15 ngày tưới một lần.
Sau khi gieo 45 – 50 ngày, cây con cao 15 – 20cm là có thể nhổ đi trồng. Cách trồng như trồng lúa với khoảng cách 25 x 30cm hoặc 30 x 45cm. Nếu đất xấu có thể trồng dày, ở đất tốt, trồng thưa hơn. Nên trồng vào ngày râm mát.
Cần làm cỏ, sục bùn kết hợp bón thúc 3 lần trong một vụ, mỗi lần bón 50 – 60kg ure cho một hecta (có thể bón thêm khô dầu, bã mắm và các loại phân hữu cơ khác nếu có điều kiện). Lần đầu tiến hành sau khi trồng 15 – 20 ngày, các lần sau cách lần đầu và cách nhau 20 – 30 ngày. Cần thường xuyên tỉa bỏ chồi nhánh (có thể dùng các chồi này để trồng lấy hạt giống) và nụ hoa để tập trung dinh dưỡng nuôi thân rễ. Ruộng trạch tả cần giữ luôn ngập nước 3 – 5cm. Trước khi thu hoạch ít ngày, có thể tháo kiệt để thân rễ chắc và dễ đào. Cây trạch tả (cả trong vườn ươm lẫn ruộng sản xuất) thường hay bị rệp hại lá non. Có thể phun Sherpa 25EC (40 – 50g a.i/ha, 0,025 – 0,03%) hoặc Rogor 50EC (300 – 700g a.i/ha, 0,1 – 0,15%) để diệt trừ.
Cây trồng sau 4 – 5 tháng được thu hoạch. Khi lá chuyển sang màu vàng, đào lấy thân rễ, rửa sạch, cạo hết rễ, phơi khô và sấy sinh để bảo quản. Mỗi hecta có thể đạt 2,7 – 3,7 tấn củ khô.
Chú ý: Trong thực tiễn, để tranh thủ mùa vụ, nhân dân còn trồng muộn hơn, sau khi thu lúa mùa sớm và thu hoạch trước vụ lúa xuân, nhưng năng suất không cao. Hạt giống cũng thu ngay trên cây lấy thân rễ. Cần nghiên cứu thêm.
Địa chỉ bán cây giống trạch tả uy tín chất lượng ?
Địa chỉ: Ngách 68/45, ngõ 68, đường Nguyễn Văn Linh, phường Long Biên, thành phố Hà Nội.
- Quý khách xin vui lòng liên hệ với Cây cảnh Hải Đăng để được các chuyên viên của chúng tôi tư vấn lựa chọn sản phẩm cây giống trạch tả phù hợp.
- Chúng tôi sẽ chụp ảnh sản phẩm cho quý khách nếu có yêu cầu.
- Chúng tôi sẽ kiểm tra kỹ hàng hóa đảm bảo chất lượng và đúng quy cách trước khi giao.
- Quý khách ở xa vui lòng tiến hành chuyển khoản trước hoặc đặt cọc trước. Nếu quý khách ở nội thành có thể áp dụng ship nhanh với chi phí 50k một lần ship.
Tài liệu tham khảo
- Trạch tả (mã đề nước) – Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi.
- Cây trạch tả – Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – Tập II – Đỗ Huy Bích cùng các tác giả khác.