Cây lục lạc hoa vàng hay muồng lá tròn, sục sặc, muồng phân, muồng lạc, muồng tía, trư thỉ đậu, dã hoàng đậu, tên tiếng Anh là smooth crotalaria (danh pháp khoa học là Crotalaria pallida Aiton; đồng nghĩa: Crotalaria striata var. acutifolia Trin.), là một loài thực vật có hoa trong họ Đậu Fabaceae.







Mô tả cây lục lạc hoa vàng
Cây lục lặc – Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – Tập II – Đỗ Huy Bích cùng các tác giả khác (đã sửa chính tả):
Cây nhỏ, cao khoảng 1m. Thân cành hình trụ hoặc hơi có cạnh, có lông. Lá kép 3 lá chét, hình bầu dục, dài 4 – 5cm, rộng 2 – 2,5cm, gốc và đầu gần tròn, hai lá chét bên nhỏ hơn, mặt bên nhẵn, mặt dưới có lông nhỏ; cuống lá kép dài khoảng 4cm; lá kèm nhỏ, sớm rụng.
Cụm hoa mọc ở kẽ lá hoặc đầu ngọn, thường đối diện với lá, dài 15 – 20cm, có lông ngắn màu vàng; lá bắc nhỏ, sớm rụng; hoa màu vàng; đài hình chuông, có lông ở mặt ngoài và có răng không đều; tràng có cánh cờ rộng, cánh bên thuôn, cánh chìa có mũi nhọn; nhị đều; bầu có lông mềm.
Quả thuôn, dài 3 – 4cm, có lông, sau nhẵn; hạt nhiều, hình thận, màu nâu nhạt hoặc vàng. Mùa hoa: tháng 1 – 3; mùa quả: tháng 4 – 6.
Thông tin thêm
1. Phân bố và sinh thái
Cây lục lặc – Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – Tập II – Đỗ Huy Bích cùng các tác giả khác (đã sửa chính tả):
Lục lặc là loài cây liên nhiệt đới, phân bố rải rác từ châu Á đến châu Phi và cả ở vùng Nam Mỹ. Ở Việt Nam, lục lặc mọc tự nhiên nhiều ở các tỉnh trung du và vùng núi thấp (dưới 600 mét) ở phía bắc. Cây còn được trồng dọc theo các bờ kênh mương ở vùng đồng bằng, lấy lá làm phân xanh.
Lục lặc là cây ưa sáng, ưa ẩm và mọc nhanh. Cây con mọc từ hạt vào khoảng tháng 4, sau 3 tháng đã có chiều cao đến hơn 1m. Cây ra hoa quả nhiều, rụng lá và có thể tàn lụi vào cuối mùa thu. Cây mọc tự nhiên ở vùng núi chỉ thấy rụng lá, ít khi tàn lụi sau 1 năm. Vào thời kỳ sinh trưởng mạnh, nếu bị cắt cành, phần còn lại có khả năng tái sinh chồi khỏe.
Toàn cây và hạt. Cả cây, thu hái quanh năm, dùng tươi hay phơi khô. Hạt lấy ở quả già vào mùa thu, phơi khô.
2. Thành phần hoá học
Cây lục lặc – Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – Tập II – Đỗ Huy Bích cùng các tác giả khác (đã sửa chính tả):
Hạt lục lặc chứa các alkaloid monocrotaline, mucronatin với độ chảy 179o (CA 1964, 61, 8129C), usaramine độ chảy 178oC (Indian J cher 1967, 5, 685), crostastriatine độ chảy 133o; mucronatinine là đồng phân mucronatine (Tetrahedron 1968, 24, 6319), nilgirine độ chảy 127oC (Tetrahedron letter 1968, 5605) (Planta medica 1972, 21, 349). Hạt còn có các flavonoid: Lutein, vitexin và các oxyloside của chúng (vitexin 4′-O-xyloside) (Phytochemistry 1971, 10, 3312).
Các hợp chất complanatuside, neocomplanoside, myncomplanoside (Trung được Từ Hải. II. 380). Thân lục lặc có apigenin (Phytochemistry 1970. 9. 2581 tr. 657).
3. Tác dụng dược lý
Cây lục lặc – Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – Tập II – Đỗ Huy Bích cùng các tác giả khác (đã sửa chính tả):
Tác dụng độc với tế bào: Dùng tế bào thân của người đã dòng hóa, cho alkaloid monocrotaline với nồng độ 0,35 mg/ml sẽ gây tổn hại cho tế bào. Tăng nồng độ lên 0,5 mg/ml, tổn thương càng rõ. Monocrotaline còn ức chế sự tổng hợp DNA của tế bào.
Tiêm phúc mạc cho chuột nhắt tráng liều 2 mg/kg làm tăng vi nhân trong hồng cầu ở tủy xương. Điều này chứng tỏ monocrotaline có tác dụng gây đột biến ở một mức độ nhất định.
Tác dụng trên tế bào ung thư: Trong thí nghiệm in vitro, cho monocrotaline vào dịch nuôi tế bào ung thư gan BEL – 7402 với nồng độ 300 và 500 µg/ml sẽ làm cho tế bào ung thư bị biến dạng, ức chế sự phân chia tế bào và sự sinh trưởng của tế bào ung thư.
Monocrotaline ức chế có ý nghĩa các loại tế bào ung thư sau: Tế bào Walker’s carcinoma, sarcoma 180, sarcoma – 37, adenocarcinoma – 775, tế bào leukemia – 615 của bệnh bạch cầu dòng lympho. Thuốc ức chế sarcoma – 37 đến 54 – 75%. Nếu có nguyên tử oxy liên kết với nguyên tử nitrogen trong nhân của monocrotaline (để tạo thành nhóm chất genalkaloid, mà ở đây là monocrotaline oxide) thì độc tính của thuốc giảm và tác dụng ức chế các tế bào ung thư cũng giảm.
Monocrotaline làm giảm sự hấp thụ phospho vào các mô ung thư, do đó ức chế sự chuyển hóa photpho, làm giảm lượng DNA và RNA trong tế bào ung thư, ức chế quá trình sinh tổng hợp.
Độc tính: Tiêm dưới da monocrotaline cho khỉ với liều 30 mg/kg. Đến tháng thứ hai, thứ tư và thứ sáu lại tiêm nhắc lại mỗi liều như trên. Sau tổng cộng 399 ngày, gây mê, làm xét nghiệm giải phẫu bệnh lý, thấy tim và phổi khỉ bị tổn thương rõ rệt.
Lá và hạt lục lặc chứa một alkaloid độc đối với dê. Nhưng nếu ngâm lá và hạt vào nước, rồi nấu chín thì hết độc.
Cao khô toàn cây lục lặc chiết bằng cồn 50o có tác dụng lợi tiểu và hạ huyết áp. Độc tính cấp, tiêm phúc mạc cho chuột nhắt trắng, đã được xác định là LD50 = 400 mg/kg, như vậy, lục lạc có độc tính khá cao (Tài liệu Ấn Độ).
Công dụng và liều dùng cây lục lạc
Hạt lục lặc có vị đắng nhạt, hơi chát, tính mát, có độc, có tác dụng sáng mắt, ích tinh, chống ung thư. Thân, lá, rễ lục lặc có vị đắng, tính bình, có tác dụng tiêu viêm, lại tiểu, giúp tiêu hóa.
Hạt lục lặc được dùng chữa suy nhược thần kinh, di tinh, xuất tinh sớm. Hạt đôi khi rang lên để thay cà phê. Toàn cây được dùng chữa lỵ, đau bụng, phong thấp, đau nhức, bạch đới, đái rắt, ung thư. Liều dùng 6 – 15g hạt, 15 – 20g toàn cây, sắc uống.
Bài thuốc có lục lặc:
Chữa phụ nữ bạch đới, đái rắt: Lục lặc, rau dừa nước, mỗi vị 20g, sắc uống. Kết hợp ăn ý dĩ sao vàng, tán bột, ngày 15 – 20g.
Chữa viêm phế quản mạn tính: Lục lặc 60g, nấu với 1 lít nước trong 30 phút rồi bỏ bã, lấy nước, cô còn 400ml, chia 3 – 4 lần uống trong ngày. Dùng 7 ngày.
Chữa ung thư (tài liệu Trung Quốc, 1986):
- Chữa bệnh bạch cầu dòng lympho mạn tính: Toàn cây lục lặc 15g, rễ địa du 15g, rễ địa hoàng 15g, rễ đẳng sâm 30g, rễ thiên môn 30g. Sắc uống ngày một thang.
- Chữa ung thư biểu mô da có vảy: Toàn cây lục lặc phơi khô nghiền thành bột, tiệt trùng ở nhiệt độ cao, trộn với nước muối sinh lý thành bột nhão, bôi lên chỗ bị bệnh, ngày 2 – 3 lần. Có thể dùng liệu pháp ion. Thuốc được chế thành bột nhão như trên. Phết bột thuốc vào một miếng gạc, đắp lên chỗ bị bệnh và nối với cực âm của một dòng điện có điện thế thấp. Ngày làm một lần trong 20 – 30 phút, mỗi đợt điều trị 12 ngày, nghỉ 7 ngày rồi tiếp đợt khác.
- Chữa bệnh bạch cầu cấp và mạn tính: Dùng bột lục lặc, phối hợp với lách lợn đã nung thành than và nghiền thành bột, lượng bằng nhau, đóng vào viên nang 0,5g, mỗi lần 2 – 3 nang, ngày 3 lần.
- Chữa ung thư cổ tử cung: Dịch ép lục lặc tươi bôi lên chỗ bị tổn thương hoặc sắc đặc lấy nước rửa. Có thể chế thành thuốc tiêm 1ml tương đương 0,5 – 1,0g dược liệu khô. Tiêm bắp thịt, ngày 4ml, cách 2 ngày làm một lần. Hoặc dùng thuốc tiêm monocrotaline tiệt trùng thay cho dịch chiết dược liệu toàn phần.
- Chữa ung thư thực quản: Lục lặc được chế thành dạng thuốc tiêm tiệt trùng monocrotaline hydroclorid, dạng thuốc viên hoặc siro.
Địa chỉ bán cây lục lạc hoa vàng uy tín chất lượng ?
Địa chỉ: Ngách 68/45, ngõ 68, đường Nguyễn Văn Linh, phường Long Biên, thành phố Hà Nội.
- Quý khách xin vui lòng liên hệ với Cây cảnh Hải Đăng để được các chuyên viên của chúng tôi tư vấn lựa chọn sản phẩm cây giống lục lạc phù hợp.
- Chúng tôi sẽ chụp ảnh sản phẩm cho quý khách nếu có yêu cầu.
- Chúng tôi sẽ kiểm tra kỹ hàng hóa đảm bảo chất lượng và đúng quy cách trước khi giao.
- Quý khách ở xa vui lòng tiến hành chuyển khoản trước hoặc đặt cọc trước. Nếu quý khách ở nội thành có thể áp dụng ship nhanh với chi phí 50k một lần ship.