Ảnh tham khảo

Rosa laevigata được chụp tại Jardin botanique de la Villa Thuret, Antibes Juan-les-Pins, Alpes-Maritimes, Pháp. Tác giả: Daderot. Ngày tạo: Ngày 22, tháng 4, năm 2011. Nguồn: Wikipedia Common.

Rosa laevigata được chụp tại Jardin botanique de la Villa Thuret, Antibes Juan-les-Pins, Alpes-Maritimes, Pháp. Tác giả: Daderot. Ngày tạo: Ngày 22, tháng 4, năm 2011. Nguồn: Wikipedia Common.

Rosa laevigata tại công viên Hamadera, Sakai, Osaka, Nhật Bản. Tác giả: Midori. Ngày tạo: Ngày 6, tháng 5, năm 2008. Nguồn: Wikipedia Common.

Rosa laevigata tại công viên Hamadera, Sakai, Osaka, Nhật Bản. Tác giả: Midori. Ngày tạo: Ngày 6, tháng 5, năm 2008. Nguồn: Wikipedia Common.

Rosa laevigata. Tác giả: Krzysztof Ziarnek, Kenraiz. Ngày tạo: Ngày 31, tháng 5, năm 2017. Nguồn: Wikipedia Common.

Rosa laevigata. Tác giả: Krzysztof Ziarnek, Kenraiz. Ngày tạo: Ngày 31, tháng 5, năm 2017. Nguồn: Wikipedia Common.
Sửa chính tả và điều chỉnh lại nội dung: 26/3/2025;
Kim anh tử hay hồng vụng, tên tiếng Anh là Cherokee rose (danh pháp khoa học là Rosa laevigata Michx., đồng nghĩa: Rosa amygdalifolia Ser.), là một loài hoa hồng thuộc họ Hoa hồng Rosaceae, bản địa ở miền nam Trung Quốc và Đài Loan, kéo dài về phía nam tới Lào và Việt Nam.
Mô tả cây kim anh tử
Cây kim anh là một loại cây mềm, mọc thành bụi, xen lẫn với những cây khác như sim, tre … Cây có thể mọc dài tới 10m. Thân cây có đường kính tới 2cm, thân và cành đều có gai mọc cúp xuống phía gốc như cây hoa hồng. Mỗi mẩu thân thường có 1 – 2 cành vươn ra rất dài, có thể tới 2 – 3m. Lá có lá kèm và gồm 3 lá chét. Lá chét hình trứng, 2 đầu nhọn, mép có răng cưa, lá chét giữa dài và rộng hơn. Đừng nhầm với cây tầm xuân có số lá chét nhiều hơn (5 – 7). Hoa màu trắng, đơn độc, mọc ở đầu cành, khi nở có đường kính rộng tới 5 – 8cm, nhị màu vàng. Đế hoa lớn, hình chén có gai nhỏ, nhọn, cuống hoa dài 1,5 – 3cm. Lá đài 5, tràng cũng có 5 cánh, nở vào cuối xuân sang hạ (các tháng 2, 3), quả chín vào các tháng 8, 9, 10.
Quả giả (thực ra đó là để hoa) tươi có màu vàng đỏ bóng, cứng hình cái chén, dài 1,5 – 2cm có cuống dài 2 – 3cm, phía trên còn sót lại 3 – 5 lá đài bao vây nhị và vòi hơi nổi phồng lên ngoài mặt có nhiều gai. Khi khô có màu nâu đỏ sẫm hay nhạt, sau khi chế biến, trên mặt có những vết sẹo của gai đã rụng đi. Trong “quả” có rất nhiều lông và “hạt” (thực ra đây mới là quả) hình thon, dẹt, dài 6 – 7mm, màu vàng nâu nhạt có góc rất cứng. Có hạt có cuống, có hạt không có cuống.
Hai dạng được công nhận là: R. laevigata f. laevigata, có hoa đơn đường kính 5 – 7 cm, và R. laevigata f. semiplena T.T.Yu & T.C.Ku, có hoa bán kép đường kính 5 – 10 cm.
Thông tin thêm
1. Phân bố, thu hái và chế biến
Mọc hoang trên các đồi ở nước ta, chủ yếu ở một số tỉnh miền núi biên giới như Cao Bằng, Lạng Sơn, tại đây một số người trồng làm hàng rào vì cây có nhiều gai. Còn thấy ở Trung Quốc (Quảng Đông, Quảng Tây, Phúc Kiến, Hà Nam, Giang Tô, Triết Giang, Hồ Nam, Hồ Bắc, Tứ Xuyên).
Trồng bằng cách dâm cành hay đào các cây con có sẵn trên đồi về. Hiện nay chưa thấy ai trống thử bằng hạt.
Đến mùa thu hái, người ta buộc giẻ vào đầu ngón tay, có thể đeo găng mà hái để tránh gai đâm vào tay. Áo cũng phải dài tay, chân đi giầy để tránh gai. Thường đây là công việc của trẻ chăn trâu, phụ nữ, người già. Mỗi ngày một người có thể hái được chừng 5 – 10kg. Hải về, sau khi phơi khô, cho vào thùng, dùng gậy đảo cho hết gai rồi phơi khô lại lần nữa, gọi là kim anh tử, nếu sau khi loại hết gai đem bổ dọc, loại bỏ hết hạt (thực tế đây là quả thực) rồi phơi khô thì gọi là kim anh nhục hay kim anh phiến.
Ngoài quả giả ra, người ta còn dùng rễ và vỏ rễ, hoa lá kim anh làm thuốc, nhưng hay dùng nhất vẫn là quả giả.
2. Thành phần hóa học
Cây kim anh – Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi (đã sửa chính tả):
Trong cùi quả giả kim anh có axit citric, axit malic, nhiều tanin và vitamin C, ngoài ra còn đường glucose, nhựa.
Kim anh tử là một nguồn vitamin C, khá lớn, tỉ lệ hơn 1%. Định lương vitamin C trong quả giả kim anh ở Lạng Sơn, chúng tôi thấy 1,360g trong 100g (Đỗ Tất Lợi và Nguyễn Xuân Thu, 1957).
Trong quả (ta gọi nhóm là hạt) có chất glucoside độc, do đó khi dùng ta vẫn phải bỏ hạt đi.
Năm 1958, hệ dược thuộc Viện y học Bắc Kinh có định lượng thấy trong kim anh có tới 17,12% saponoside (Theo Trung được chi Bắc Kinh, 1959).
3. Tác dụng dược lý
Cây kim anh – Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi (đã sửa chính tả):
Leclerc (1939) nghiên cứu độc tính của cồn chế từ toàn quả giả (Rosa canina L.) (cả quả giả và quả thực) thì thấy rằng với liều 60 – 70 giọt có thể gây đờ đẫn, với khuynh hướng chóng mặt và giảm hoạt động của thần kinh cơ.
Năm 1934 A. Garello-Cantoni nhận xét thấy nước sắc 5% cũng có độc tính, tiêm 1ml dưới da một con ếch, rồi một con chuột thì thấy con vật chết sau 3 giờ, sau một thời kỳ kích thích ngắn, xuất hiện hiện tượng đờ đẫn, giật rung, run, liệt toàn thân và chết tim ngừng ở thể tâm trương. Nếu liều nhỏ hơn, các triệu chứng yếu hơn và sau 8 giờ con vật trở lại bình thường. Tóm lại chất glucoside có tác dụng trên tủy, hệ thống thần kinh và tim.
Jim-Min Fang và cộng sự (1991), từ chiết xuất bằng axeton các bộ phận trên mặt đất của Rosa laevigata phát hiện 16 thành phần khác nhau, bao gồm các dẫn xuất của ursolic acid, euscaphic và oleanolic cũng như các glucoside của các sterol. Trong số này, có 2α-methoxy-ursolic acid, 11α-hydroxytormentic acid, tormentic acid, 6-methoxy-β-glucopyranosyl ester và stigmasta-3α,5α-diol-3-O–β-D-glucopyranoside là các hợp chất mới (Jim-Min Fang et al.; 1991).
Công dụng và liều dùng kim anh tử
Kim anh được dùng cả trong đông y và tây y.
Tây y coi kim anh là một nguồn vitamin C quan trọng. Thường chế thành mứt có vị vừa ngọt, vừa chát và vừa chua, dùng làm thuốc bổ, thuốc cầm máu. Thuốc pha hay cồn thuốc chế bằng toàn bộ quả (cả cùi và hạt) được dùng chữa bệnh về thần kinh với những triệu chứng như lo câu, thần kinh bất định, trằn trọc thâu đêm. Khi dùng phải cẩn thận, tránh ngộ độc.
Quả giả kim anh còn dùng dưới dạng sirô (1ml có 5mg vitamin C), bột (kg bột có 30mg vitamin C).
Đông y coi kim anh có vị chua, chát, tính bình, vào kinh và thận, có tác dụng kiện tinh, mạnh ruột, Dùng chữa di tinh, đái són, tiểu tiện nhiều lần, phụ nữ khí hư, bạch đới, tỳ tư mà hay đi ỉa lỏng. Dùng dưới hình thức bột tay cao mềm. Ngày dùng 6 đến 12g.
Ngoài ra người ta còn dùng lá kim anh giã nhỏ, thêm ít muối mà đắp lên mụn nhọt, có khi phối hợp với lá dâu tằm cùng giã với muối mà đắp lên vết thương để cầm máu.
Địa chỉ bán cây kim anh tử tại Hà Nội uy tín ?
Địa chỉ: Ngách 68/45, ngõ 68, đường Nguyễn Văn Linh, phường Long Biên, thành phố Hà Nội.
- Quý khách xin vui lòng liên hệ với Cây cảnh Hải Đăng để được các chuyên viên của chúng tôi tư vấn lựa chọn sản phẩm bầu giống kim anh tử phù hợp.
- Chúng tôi sẽ chụp ảnh sản phẩm cho quý khách nếu có yêu cầu.
- Chúng tôi sẽ kiểm tra kỹ hàng hóa đảm bảo chất lượng và đúng quy cách trước khi giao.
- Quý khách ở xa vui lòng tiến hành chuyển khoản trước hoặc đặt cọc trước. Nếu quý khách ở nội thành có thể áp dụng ship nhanh với chi phí 50k một lần ship.
Tài liệu tham khảo
- Cây kim anh – Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi.
- Jim-Min Fang et al. (1991). “Steroids and triterpenoids from Rosa laevigata“; Phytochemistry. 30(10):3383 – 3387.