Sửa chính tả và điều chỉnh lại nội dung: 27/3/2025;
Cây đại hoàng hay còn gọi là xuyên đại hoàng, tướng quân, chưởng diệp đại hoàng, tên tiếng Anh là Chinese rhubarb, ornamental rhubarb, Turkey rhubarb, East Indian rhubarb (danh pháp khoa học là Rheum palmatum L.) là một loài cây thuộc họ Rau răm Polygonaceae.
Mô tả cây đại hoàng
Cây thân thảo lớn, sống rất dai nhờ thân rễ to. Thân có thể cao tới 2m, giữa rỗng, mặt thân nhẵn. Lá mọc thành cụm từ thân rễ, có kích thước lớn, cuống dài, có bẹ chìa, phiến lá hình tim rộng khoảng 30 – 40cm, phân thành 5 – 7 thùy chính, các thùy này cũng có thể phân chia tiếp lần hai hoặc đôi khi là lần ba. Gân lá nổi rõ mặt dưới, thường sẽ có màu đỏ nhạt. Từ năm thứ 3 – 4 trở đi thì xuất hiện 1 thân mọc lên cao 1 – 2m mang một số lá nhỏ. Cụm hoa mọc thành chùm khi còn non, hoa có màu tím đỏ. Quả đóng 3 góc.


Ngoài ra còn có một loại đại hoàng nữa là dược dụng đại hoàng (Rheum officinale Baill.). Đây cũng là một cây sống lâu năm, nhưng thấp hơn, chỉ cao chừng 1,5m. Lá mọc so le có cuống dài. Phiến lá hình trứng phía cuống hình tim, đường kính 40 – 70cm, phiến lá không chia thùy mà chỉ cắt sâu chừng 1/4 (cũng có thể nói lá chia thùy nhưng về độ sâu sẽ không bằng Rheum palmatum). Hoa màu xanh nhạt hay vàng trắng nhạt.
Cũng không nên bỏ qua đường cổ đặc đại hoàng (Rheum tanguticum Maxim. ex Balf.). Đây cũng là một cây sống lâu năm. Chiều cao có thể đạt tới 2m, lá có phiến cắt rất sâu thành thùy. Cây này mọc hoang rất nhiều ở tỉnh Tứ Xuyên, Thanh Hải, Cam Túc.
Thông tin thêm
1. Phân bố, thu hái và chế biến
Cây đại hoàng có nguồn gốc ở Trung quốc vốn được dùng từ rất lâu đời và dần dần thâm nhập vào châu Âu. Ở Trung quốc cây chủ yếu mọc hoang hoặc được trồng ở Cam túc, Thanh hải, Tứ xuyên. Đại hoàng mọc ở tỉnh Tứ xuyên rất được ưa chuộng và được gọi với cái tên mĩ miều là xuyên đại hoàng. Hiện nay đại hoàng cũng đã được di nhập trồng ở nhiều nước như Hà lan, Pháp, Mỹ, Nhật. Đến Việt Nam ta còn phải nhập hạt giống của Trung quốc.
Cây ưa thích mọc ở vùng có khí hậu mát, ẩm, ở độ cao trên 1000m. Khi thu hoạch người ta sẽ lựa chọn thân rễ của những cây đã mọc trên 3 – 4 năm (ở những vùng có cây mọc hoang thì có thể lên tận 6 – 10 năm) vào mùa thu, khi cây bắt đầu lụi.
Thường hái thân rễ của những cây đã sống trên 3 năm. Đào vào các tháng 9 – 10. Đào về rửa sạch đất cát, cắt bỏ phần trên mặt đất, rễ nhỏ, cạo vỏ ngoài, củ to quá có thể bổ hai hay tư mà phơi cho dễ, dùng lạt xâu treo trong thềm nhà để cho khô dần hoặc có thể sấy nhẹ cho khô. Sau khi khô là dùng được (nếu dùng trong nước) hoặc cạo bỏ vỏ ngoài rồi đánh bóng nếu để xuất.

2. Thành phần hóa học
Cây đại hoàng (xuyên đại hoàng) – Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi (đã sửa chính tả, một số thông tin hiện tại có thể không chính xác):
Trong đại hoàng có hai loại hoạt chất tác dụng trái ngược nhau.
– Loại hoạt chất có tính chất thu liễm – là những hợp chất có chứa tanin (rheotannoglucoside).
– Loại hoạt chất có tác dụng tẩy rheoanthraglucoside.
Thành phần chủ yếu trong các rheotannoglucoside là glucogallin. Khi tiến hành thủy phân, glucogallin sẽ cho ra axit gallic và glucose. Ngoài ra còn có các sản phẩm phụ khác như catechin và tetralin (1,2,3,4-tetrahydronaphthalene).
Còn trong các rheoanthraglucoside, chúng ta sẽ thấy chủ yếu các chất sau đây:
– Axit chrysophanic (chrysophanol) C15H10O4
– Aloe emodin (1,8-dihydroxy-3-(hydroxymethyl)anthraquinone) C15H10O5
– Rhein (axit cassic) C15H8O6
– Emodin (6-methyl-1,3,8-trihydroxyanthraquinone) C15H10O5
– Emodin monomethyl ether C16H12O5
Tỷ lệ các anthraglucoside toàn bộ trong đại hoàng vào chừng 2 – 4,5%, trong đó một phần ở trạng thái tự do, một phần ở trạng thái kết hợp. Theo Wasicky và Heinz thì trong đại hoàng tươi chủ yếu có anthraglucoside ở dạng kết hợp mà không có ở dạng tự do. Tuy nhiên, theo l. Kroeber (1923), tác dụng tẩy của đại hoàng không phụ thuộc hoàn toàn vào tỉ lệ anthraglucoside. Bởi dù có lấy bớt anthraglucoside đi thì công hiệu tẩy vẫn còn tác dụng.




3. Tác dụng dược lý
Cây đại hoàng (xuyên đại hoàng) – Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi (đã sửa chính tả):
1. Kích thích sự co bóp của ruột: Tác dụng chậm, chừng 5 – 10 giờ sau khi uống mới thấy tác dụng, có khi lâu hơn. Phân mềm, vàng hay nâu sẫm, màu này một phần do màu của đại hoàng. một phần do chất mật tiết ra nhiều hơn. Thường không thấy đau bụng, tuy nhiên đôi khi thấy buồn nôn, chóng mặt hay nổi mẩn. Do tác dụng sung huyết đối với các mạch máu trĩ cho nên không nên dùng đối với người bị trĩ và cũng không nên dùng cho những người hay bị táo vì thường sau khi gây tác dụng nhuận tràng, đại hoàng hay gây táo bón mạnh hơn trước.Vì trong đại hoàng có chứa nhiều canxi oxalat cho nên không dùng lâu cho những người bị kết thạch thận oxalic hay sổ nước nang (catarrhe vesical) vì nó có thể gây ra bệnh đái ra oxalat.
Các chất màu thấm qua máu, nước tiểu và mồ hồi, sữa … tất cả các chất bài tiết đều có màu vàng và nếu nước tiểu có phản ứng kiềm, nước tiểu sẽ có màu đỏ. Sữa mẹ có tác dụng tẩy đối với con đang bú sữa mẹ.
2. Do các rheotannoglucoside, đại hoàng có tính chất bổ, thêm vào tính chất gây co bóp nhẹ với liều thấp của các anthraglucoside.
3. Còn có tác dụng diệt khuẩn (Staphyllococcus, lỵ, thương hàn, tả).
Công dụng của cây đại hoàng và cách sử dụng
Đại hoàng được dùng rất nhiều trong cả Đông y và tây Y. Theo tài liệu cổ đại hoàng có vị đắng, tính hàn, vào 5 kinh tỳ, vị, can, tâm bào và đại trường. Có tác dụng hạ vị tràng tích trệ, tả huyết phận thực nhiệt hạ ứ huyết, phá trưng hà (kết báng ở bụng) hàn thủy. Dùng chữa hạ lỵ, ứ huyết, kinh bế thủy thũng, thấp nhiệt gây vàng da, ung thũng đinh độc. Hiện nay nếu dùng với liều nhẹ thì sẽ làm thuốc giúp cải thiện hệ tiêu hóa, chữa kém ăn, ăn không tiêu, da vàng, hay đau bụng. Ngày uống 0,1 – 0,5g dưới dạng thuốc sắc, bột hay thuốc viên.
Còn dùng với liều cao thì sẽ làm thuốc tẩy nhẹ. dùng cho những người đày bụng, đi lỵ, hoàng đản (da và mắt vàng). Ngày uống 3 – 10g. Thường dùng phối hợp với các vị thuốc khác như chỉ thực, hậu phác, hoàng liên, mang tiêu …
Một số đơn thuốc có chứa đại hoàng:
– Vị tràng thực nhiệt dẫn đến đại tràng bí kết, táo bón nặng, thậm chí có khi dẫn đến sốt cao, nói mê sảng, phát cuồng: Chuẩn bị đại hoàng (sao vàng), hậu phác mỗi vị lấy 9g, mang tiêu (natrium sulfuricum) 15g, chỉ thực 6g (sao vàng xém cạnh). Tất cả đem đi dắc uống ngày 1 thang, chia 2 – 3 lần, uống trước bữa ăn khi thuốc còn ấm. Uống liền vài ngày tới khi hết táo bón.
– Nếu táo bón nhẹ hoặc táo bón ở những người sức khỏe yếu, người cao tuổi, phụ nữ sau sinh: Nguyên liệu gồm đại hoàng (sao vàng), hậu phác, mỗi vị 9g, chỉ thực 6g. Hoặc đại hoàng 6g; hỏa ma nhân 15g. Sắc uống mỗi ngày 1 thang, chia đều thành 2 – 3 lần trước bữa ăn, khi thuốc còn ấm. Uống liền vài ngày tới khi hết táo bón.
– Người bị táo bón mạn tính, táo bón do nghề nghiệp: Đại hoàng (sao vàng) 45g, đào nhân 20g, mộc hương, chỉ thực, sài hồ, cam thảo, mỗi vị lấy ra 15g. Đem tất cả các vị trên đi nghiền bột mịn, thêm mật ong làm hoàn, chia 2 lần uống sáng và tối, mỗi lần 6g. Hoặc uống ngày 1 lần 9g với nước hãm chỉ thực hoặc chỉ xác. Cần lưu ý rằng, để tăng nhu động ruột và làm cho đại tiện được thông suốt, bao giờ đại hoàng cũng được dùng kèm với chỉ thực, hoặc chỉ xác. Nên nhớ đại hoàng phi chỉ xác sẽ bất thông, có nghĩa là đại hoàng giúp làm phân nát ra, song để tống được ra ngoài cần phải có chỉ thực hoặc chỉ xác, là những vị thuốc có tác dụng làm tăng nhu động ruột.
⇒ Lưu ý: Khi dùng đại hoàng trị táo bón không nên dùng trong thời gian dài, sẽ gây táo bón trở lại. Vì trong đại hoàng ngoài các chất gây tẩy còn có các chất tanin gây sáp trường, săn se niêm mạc ruột (như đã nhắc ở trên).
– Trị nôn ra máu, chảy máu cam, trĩ ra máu, màng kết hợp xung huyết, sung huyết não, lợi bị sưng phù: Đại hoàng (sao cháy), hoàng cầm, hoàng liên, mỗi vị 12g. Sắc uống ngày 1 thang, chia đều thành 2 – 3 lần trước bữa ăn. Uống liền nhiều ngày tới khi các triệu chứng có dấu hiệu thuyên giảm.
– Trị mụn nhọt ở miệng, lưỡi, lỗ mũi, nhọt vú …: Đại hoàng (chích rượu) tán bột mịn, uống mỗi lần 9g, ngoài ra có thể dùng bột đại hoàng hòa vào nước làm thành dạng nhão, bôi vào nơi bị bệnh.
– Trị kinh nguyệt bế tích, hoặc sau đẻ máu xấu bị ứ tích, gây đau bụng, hay ngã, chấn thương ứ huyết sưng đau: Đại hoàng 9g; ngưu tất, ích mẫu, mỗi vị 12g. Sắc đều uống.
– Trị bỏng lửa: Đại hoàng (sao cháy) nghiền bột mịn, rắc vào vết thương, hoặc trộn đều vào dầu khuynh diệp, bôi vào nơi bị bỏng nhẹ.
Địa chỉ bán giống cây đại hoàng uy tín chất lượng ?
Địa chỉ: Ngách 68/45, ngõ 68, đường Nguyễn Văn Linh, phường Long Biên, thành phố Hà Nội.
- Quý khách xin vui lòng liên hệ với Cây cảnh Hải Đăng để được các chuyên viên của chúng tôi tư vấn lựa chọn sản phẩm cây giống đại hoàng phù hợp.
- Chúng tôi sẽ chụp ảnh sản phẩm cho quý khách nếu có yêu cầu.
- Chúng tôi sẽ kiểm tra kỹ hàng hóa đảm bảo chất lượng và đúng quy cách trước khi giao.
- Quý khách ở xa vui lòng tiến hành chuyển khoản trước. Nếu quý khách ở nội thành có thể áp dụng ship nhanh với chi phí 30k một lần ship.