Độ hoàn thiện nội dung: 70%.
Hạt giống diệp hạ châu chuẩn hàng sẵn sàng trao tay khách.
- Đóng gói 0,5kg.
- Giá thỏa thuận.
- Xuất xứ: Việt Nam.
- Thời gian thu hoạch: 140 ngày.
- Lượng hạt giống diệp hạ châu cho 1 ha: 8 – 9kg hạt.
- Tên vị thuốc: Diệp hạ châu.
Diệp hạ châu hay chó đẻ răng cưa, chó đẻ, diệp hạ châu, diệp hạ châu đắng, cau trời, tên tiếng Anh là chamber bitter, gripeweed, shatterstone, stonebreaker, leafflower (danh pháp khoa học là Phyllanthus urinaria L.) là một loài thực vật có hoa thuộc họ thầu dầu Euphorbiaceae.

Mô tả cây diệp hạ châu đắng
Cây chó đẻ răng cưa – Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi (đã sửa chính tả):
Cây chó đẻ răng cưa là một loại cỏ mọc hằng năm, cao chừng 30cm, thân gần như nhẵn, mọc thẳng đứng, mang cành, thường có màu đỏ. Lá mọc so le, lưỡng lệ trông như lá kép, phiến lá thuôn, dài 5 – 15mm, rộng 2 – 5mm, đầu nhọn hay hơi tù, mép nguyên nhưng như hơi có răng cưa rất nhỏ, mặt dưới màu lơ xanh, không cuống hay có cuống rất ngắn. Hoa mọc ở kẽ lá, nhỏ, màu đỏ nâu, đơn tính, hoa đực, hoa cái cùng gốc, ở đầu cành, cái ở dưới. Hoa không cuống, hoặc có cuống rất ngắn. Đường kính quả có thể đạt tới 2mm, treo lủng lẳng dưới lá, do đó có tên: diệp = lá, hạ = dưới, châu = hạ, nghĩa là hạt dưới mặt lá. Hạt ba cạnh, hình trứng, màu nâu nhạt, có vân ngang.
Cây chó đẻ – Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – Tập I – Đỗ Huy Bích cùng các tác giả khác (đã sửa chính tả):
Cây thảo, sống hàng năm hay sống dai, cao 20 – 30cm, có thể đến 60 – 70cm. Thân nhẵn, thường có màu hồng đỏ. Lá mọc so le, hình bầu dục, xếp sít nhau thành hai dãy như một lá kép hình lông chim, mặt trên xanh lục nhạt, mặt dưới màu xám nhạt, dài 1 – 1,5 cm, rộng 3 – 4mm; cuống lá rất ngắn.
Hoa mọc ở kẽ lá, có cuống ngắn, đơn tính cùng gốc, hoa đực ở đầu cành có 6 lá đài, 3 nhị, chỉ nhị ngắn; hoa cái ở cuối cành, 6 lá đài, bầu hình trứng. Quả nang, hình cầu, hơi dẹt, mọc rủ xuống ở dưới lá, có khía mờ và có gai, hạt hình 3 cạnh. Mùa hoa: tháng 4 – 6; mùa quả: tháng 7 – 9.
Loài Phyllanthus niruri L. có quả trơn nhẵn cũng được dùng với công dụng tương tự.
Để phân biệt hai cây chó đẻ trên, có người gọi cây có quả nhẵn là chó đẻ, còn loài có quả có gai là chó đẻ răng cưa.
Trong tự nhiên, còn có loài Phyllanthus amarus Schumach. & Thonn. (diệp hạ châu đắng) mà có tác giả cho rằng đó là tên đồng nghĩa của Phyllanthus niruri L.
Chú ý: Đồng bào dân tộc vùng chợ Rã – Bắc Thái lại gọi cây hy thiêm là cây chó đẻ hoa vàng. Tránh nhầm lẫn.

Thông tin thêm
1. Phân bố thu hái và chế biến
Cây chó đẻ – Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – Tập I – Đỗ Huy Bích cùng các tác giả khác (đã sửa chính tả):
Chi Phyllanthus L. có nhiều loài, gồm từ những cây thảo đến các cây bụi hay gỗ nhỏ, phân bố chủ yếu ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới. Ở Việt Nam, chi này có khoảng 40 loài, trong đó đáng chú ý là 2 loài Phyllanthus urinaria L. và P. niruri l. có hình dáng gần giống nhau, mọc rải rác ở khắp nơi, trừ vùng núi cao lạnh. Trên thế giới, các loài này cũng có vùng phân bố rộng rãi ở một số nước nhiệt đới châu Á khác như Ấn Độ, Malaysia, Thái Lan, Campuchia, Lào và ở cả Nam Trung Quốc.
Chó đẻ là cây ưa ẩm và ưa sáng hoặc có thể hơi chịu bóng, thường mọc lẫn trong các bãi cỏ, ở ruộng cao (đất trồng màu), nương rẫy, vườn nhà và đôi khi ở vùng đồi. Cây con mọc từ hạt vào cuối mùa xuân; sinh trưởng nhanh trong mùa hè và tàn lụi vào giữa mùa thu. Do khả năng ra hoa kết quả nhiều, hạt giống phát tán gần nên cây thường mọc thành đám dày đặc, đôi khi lấn át cả các loại cỏ dại và cây trồng khác.

2. Thành phần hoá học
Cây chó đẻ răng cưa – Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi (đã sửa chính tả):
Trong loài Phyllanthus discoideus (Baill.) Müll.Arg. có phyllanthine C14H17NO3 (Manske R.H.F: The Alkaloids Chemistry and Physiology XIV-1973, 428) và phyllantidine C13H15NO3 (Horii Z. et al., Tetrahedron Letters 1972, 1877).
Trong loài Phyllanthus niruri L. có phyllanthin C24H34O6, hypophyllanthin C24H30O7, niranthin C24H32O7, nirtetralin C24H30O7 và phylteralin C24H34O6 (Anjaneyulu. A. S. R. et al. Tetrahedron, 1973, 29, 129).
Cây chó đẻ – Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – Tập I – Đỗ Huy Bích cùng các tác giả khác (đã sửa chính tả):
Cây chó đẻ Phyllanthus urinaria chứa nhiều chất thuộc các nhóm hóa học:
– Flavonoid: Kaempferol, quercetin, rutin.
– Triterpene: Stigmasterol; stigmasterol-3-O-β-glucoside; β-sitosterol; β-sitosterol glucoside; lup-20(29)-en-3β-ol.
– Tanin: Acid ellagic; acid 3,3,4-tri-O-methyl ellagic; acid gallic.
– Phenol: Methyl brevifolincarboxylate.
– Acid hữu cơ: Acid succinic; acid ferulic; acid dotriacontanoic.
– Các thành phần khác: n-octadecane; acid dehydrochebulic methyl ester; triacontanol; phyllanthurinol actone.
– Lignan: Phyllanthine.
(Trung dược Từ Hải II, 1996, 1019; PROSEA 12(1), 1999, 381 – 392; Comprehensive Natural Products Chemistry, vol. 8, 1999; CA 126: 212300t; CA 124: 185531u; CA 124: 66574a; CA 123: 79556a; CA 123: 138824m; CA 265753a).

3. Tác dụng dược lý
Cây chó đẻ răng cưa – Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi (đã sửa chính tả):
Chưa thấy có tài liệu nghiên cứu. Năm 1961, Phòng đông y Viện vi trùng Việt nam nghiên cứu tác dụng kháng sinh của chó đẻ răng cưa thấy kết quả kháng sinh như sau: Tụ cầu trùng (0,5), Salmonella typhi (0,9), Shigella flexneri (1,1), Shigella sonnei (0), Bacillus subtilis (0,4), Escherichia coli (0) cm.
Năm 1988 (Lancet Oct. 1. 1988) Blumberg và Thiogarajan công bố đã điều trị 37 bệnh nhân viêm gan siêu vi trùng B (VGSVB) bằng chó đẻ răng cưa (CĐRC) Phyllanthus amarus đạt kết quả âm tính 22/37 sau 30 ngày. Các tác giả còn chứng minh P. amarus có chứa chất làm ức chế lên men polymerase DNA của virus gây viêm gan siêu vi B (VGSV B). Cây P. amarus có mọc hoang dại và thường được dùng lẫn với cây P. urinaria đã mô tả ở trên.
Cây chó đẻ – Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – Tập I – Đỗ Huy Bích cùng các tác giả khác (đã sửa chính tả):
Trong thí nghiệm về hoạt tính bảo vệ gan của cây diệp hạ châu đắng chống lại tổn thương gan gây thực nghiệm trên chuột cống trắng, cao cồn của toàn cây (liều uống 100 mg/kg x 7) đã biểu lộ tác dụng bảo vệ đáng kể thông qua những thông số hóa sinh của huyết thanh và gan. Phân đoạn chiết với butanol có hoạt tính bảo vệ gan cao nhất, liều uống 50 mg/kg x 7 có tác dụng bảo vệ 35 – 85%. Phân đoạn chiết với nước có tác dụng bảo vệ gan nhẹ (20 – 40%).
Phyllanthine và hypophyllanthine có tác dụng bảo vệ tế bào gan chuột cống trắng chống tính độc hại tế bào gây bởi carbon tetrachloride và galactosamine. Chất triterpene triacontanol phân lập từ cây chó đẻ có tác dụng bảo vệ gan chống lại tính độc hại tế bào gây bởi galactosamine trên tế bào gan chuột cống trắng. Điều này xác minh ít nhất một phần tác dụng bảo vệ gan của cao cồn cây chó đẻ trên chuột cống trắng.
Các thí nghiệm về cây chó đẻ in vitro với kháng nguyên HBsAg và với tổn thương gan do carbon tetrachloride gây nên đã chứng minh là cây chó đẻ có tác dụng kháng virus viêm gan B. Trong cùng điều kiện thí nghiệm in vitro, geraniin phân lập từ lá cây diệp hạ châu đắng cũng được chứng minh có tác dụng kháng virus viêm gan B.
Một loại những acid phenolic phân lập từ các loài Phyllanthus trong đó có các cây chó đẻ và diệp hạ châu đắng, có tác dụng ức chế DNA polymerase của siêu vi khuẩn viêm gan B. Cao cây chó đẻ có tác dụng ức chế trên men polymerase của siêu vi khuẩn viêm gan B của vịt trong khi cao cây diệp hạ châu đắng không có tác dụng này.
Trong một nghiên cứu lâm sàng sơ bộ với một dạng bào chế từ toàn bộ cây diệp hạ châu đắng (trừ rễ) trên người mang siêu vi khuẩn viêm gan B, với liều 200 mg trong 30 ngày, trong tổng số 37 bệnh nhân điều trị, có 22 người (59%) đã mất kháng nguyên bề mặt HBsAg của viêm gan B khi xét nghiệm ở ngày 15 – 20, sau khi kết thúc điều trị. Ở nhóm bệnh nhân dùng placebo, chỉ có 1 bệnh nhân trong số 23 bệnh nhân đối chứng (4%) có kết quả xét nghiệm về kháng nguyên HBsAg như trên. Đã theo dõi một số đối tượng được điều trị với chế phẩm từ diệp hạ châu đắng đến 9 tháng. Không có trường hợp nào kháng nguyên bề mặt trở lại. Quan sát lâm sàng thấy có ít hoặc không có tác dụng độc.
Cây chó đẻ có tác dụng kháng khuẩn đối với tụ cầu vàng, trực khuẩn mủ xanh, trực khuẩn coli, Shigella dysenteriae, S. flexneri, S. shigae, Moraxella, và kháng nấm đối với Aspergillus fumigatus. Acid gallic chứa trong cây có tác dụng kháng khuẩn yếu. Một dẫn chất phenolic và một flavonoid phân lập từ cây chó đẻ có tác dụng kháng khuẩn mạnh hơn và kháng nấm rõ rệt. Cao chiết với cồn – nước từ cây chó đẻ có tác dụng giảm đau chống lại cảm giác đau gây nên do formalin và capsaicin ở chuột nhắt trắng (hoạt tính chống nhận cảm đau); và cao cồn methylic có tác dụng hạ đường máu trên chuột cống trắng đái tháo đường.
Cây diệp hạ châu đắng có tác dụng kháng khuẩn và diệt nấm. Cao toàn cây diệp hạ châu đắng làm giảm nhu động ruột, làm chậm vận chuyển thức ăn khỏi dạ dày trên chuột cống trắng, và gây giãn hồi tràng cô lập của chuột cống trắng. Điều này xác minh công dụng của diệp hạ châu đắng trong điều trị tiêu chảy và những rối loạn tiêu hóa khác ở một số nước.
Cao toàn phần cây diệp hạ châu đắng còn có tác dụng lợi tiểu, hạ huyết áp và hạ đường máu ở người. Đã chứng minh một cao cồn của diệp hạ châu đắng gây giảm sinh sản trên chuột nhắt đực.
Loài Phyllanthus niruri rất giống loài P. urinaria và cũng được dùng thử nghiệm in vitro cho thấy cây P. niruri có tác dụng chống ký sinh trùng sốt rét ở mức độ vừa. Cao nước từ lá có tác dụng hạ đường máu, ở thỏ bình thường và thỏ đái tháo đường. Cao làm hạ đường máu ngay cả khi cho uống một giờ sau khi cho uống glucose; và hoạt tính hạ đường máu của thuốc này cao hơn tác dụng của tolbutamide. Đã chứng minh 2 flavonoid ký hiệu FG1 và FG2 phân lập từ phần đoạn tan trong nước của cao cồn P. niruri có hoạt tính hạ đường máu bằng đường uống trên chuột cống trắng tiêm alloxan. Mức độ giảm đường máu khoảng 20% với FG1 và 25% với FG2. Những flavonoid này không có hoạt tính giảm đường máu ở chuột cống trắng bình thường.


Công dụng và liều dùng diệp hạ châu
Cây chó đẻ có vị hơi đắng, tính mát, có tác dụng tiêu độc, sát trùng, tiêu viêm, tán ứ, thông huyết mạch, lợi tiểu.
Cây chó đẻ được dùng chữa đau viêm họng, đinh râu, mụn nhọt, viêm da, lở ngứa, sản hậu ứ huyết đau bụng, trẻ em tưa lưỡi (giã cây tươi, lọc lấy nước cốt bôi), chàm má (giã nát đắp). Ngoài ra còn dùng chữa bệnh gan, sốt, rắn rết cắn, và dùng cây tươi giã đắp, hoặc dịch ép cây tươi bôi ngoài, liều lượng không hạn chế.
Kiêng kỵ: Phụ nữ có thai không nên dùng.
Trong y học dân gian Ấn Độ, người ta dùng cây chó đẻ với những công dụng tương tư cây P. niruri và thường để thay thế cây chó đẻ có tác dụng lợi tiểu rất tốt. Nước ép lá cho vào sữa dừa dùng cho trẻ em làm ăn ngon miệng. Cây diệp hạ châu đắng được coi là thuốc làm sản, khai thông và sát trùng, và được dùng trị khó tiêu, lỵ, phù, bệnh đường niệu – sinh dục, bệnh lậu và đái tháo đường. Lá và quả diệp hạ châu đắng được giã và làm thành bột nhão với nước sữa, tỏi và hạt tiêu và dùng uống trị vàng da. Dưới dạng thuốc đắp bào chế với nước gạo, diệp hạ châu đắng dùng chữa sưng phù và loét. Dược liệu này còn được dùng trị giun trẻ em.
Cây P. niruri cũng có tác dụng làm săn, làm dễ tiêu, lợi tiểu, hạ sốt và sát trùng, trị những rối loạn tiêu hóa như khó tiêu, cơn đau bụng, tiêu chảy, lỵ, và trị phù, bệnh lậu và bệnh đường niệu – sinh dục. Rễ tươi có tác dụng trị vàng da, và được dùng với sữa để lợi sữa. Nước sắc lá là thuốc làm mát da đầu. Một loại thuốc đắp bào chế từ lá là và rễ được dùng đắp trên những chỗ sưng phù và loét. Mủ cây bôi chữa mụn nhọt và loét khó lành. Những chồi non trị lỵ và vàng da. Lá điều trị đái tháo đường.
Ở Đông Nam Á, cây chó đẻ có cùng công dụng như diệp hạ châu đắng, nhưng diệp hạ châu đắng thường được ưa dùng hơn. Từ Hải Nam đến Indonesia, diệp hạ châu đắng dưới dạng thuốc sắc hoặc chè được dùng uống để lợi tiểu và điều trị bệnh về thận và gan, cơn đau bụng và bệnh hoa liễu, và làm thuốc long đờm trị ho, thuốc hạ sốt, điều kinh, và trị tiêu chảy. Nước sắc toàn cây dùng làm thuốc bổ dạ dày. Cây giã đắp ngoài trị đụng dập và bệnh da. Ở Papua New Guinea, thuốc hãm để nguội của toàn cây được dùng trị nhức đầu hoặc chứng nhức nửa đầu (migraine). Ở Trung và Nam Mỹ, người ta dùng diệp hạ châu đắng để trị sốt rét, bệnh thận, sỏi thận, sỏi bàng quang, rối loạn tiết niệu, và gây sẩy thai.
Trong y học dân gian Tanzania, cao nước phần trên mặt đất của diệp hạ châu đắng được dùng điều trị đái tháo đường không phụ thuộc insulin. Ở Nigeria, cao nước cây khô trị tiêu chảy. Lá nhai chữa ho dai dẳng và làm giảm đau dạ dày. Ở Bờ Biển Ngà, diệp hạ châu đắng làm dễ đẻ, chữa đau họng, đau gian sườn, đau mình mẩy, sốt và phù. Thường dùng lá dưới dạng thuốc sắc uống trong nhiều bệnh, đặc biệt trong một số bệnh da, vàng da, nôn, bệnh lậu và đánh trống ngực.
Cây chó đẻ dưới dạng dịch ép được dùng trong y học dân gian Malaysia làm sạch lưỡi trẻ em và kích thích ăn ngon miệng. Ở Papua New Guinea, nước sắc dùng hạ sốt. Ở Brunei, thuốc đắp từ lá cùng với sữa dừa trị bệnh đậu mùa. Ở Campuchia cây chó đẻ trị sốt rét. Ở Thái Bình Dương, cây được dùng điều kinh và gây sảy thai. Ở Guam, nước sắc của cây này trị lỵ và ở quần đảo Solomon, lá chữa đau ngực.
Cây P. niruri được dùng dưới dạng thuốc sắc ở Indonesia và Peru để làm thuốc lợi tiểu, điều trị những rối loạn đường tiết niệu, sỏi thận và sỏi mật.
Bài thuốc có cây chó đẻ:
Chữa nhọt độc sưng đau: Cây chó đẻ một nắm với một ít muối giã nhỏ, chế nước chín vào, vắt lấy nước cốt uống, bã đắp chỗ đau (Bách gia trân tàng).
Chữa bị thương ứ máu: Lá cành cây chó đẻ và mần tưới mỗi thứ một nắm giã nhỏ, chế đồng tiện (nước tiểu trẻ em trai) vào, vắt lấy nước uống, bã đắp. Hoặc hòa thêm bột đại hoàng 8 – 12g thì càng tốt (Hoạt nhân toát yếu).
Chữa bị thương đứt, bị chém, chảy máu: Cây chó đẻ với vôi giã nhỏ, đắp vào vết thương (Bách gia trân tàng).
Chữa lở loét thối thịt không liền miệng: Lá cây chó đẻ, lá thồm lồm, bằng nhau, đinh hương 1 nụ, giã nhỏ đắp (Bách gia trân tàng).
Chữa bệnh chàm (eczema) mạn tính: Cây chó đẻ, vò, xát nhiều lần, làm liên tục hằng ngày sẽ khỏi.
Chữa viêm gan vàng da, viêm thận đái đỏ, hoặc viêm ruột tiêu chảy, hoặc mắt đau sưng đỏ: Cây chó đẻ 40g, mã đề 20g, dành dành 12g. Sắc uống.
Chữa sốt rét (Triệt ngược thang): Cây chó đẻ 8g; thảo quả, dây hà thủ ô, lá mãng cầu ta tươi, thường sơn, dây gắm, mỗi vị 10g; binh lang (hạt cau), ô mài, dây cóc (Derris trifoliata Lour.) mỗi vị 4g. Sắc với 600ml nước, còn 200ml, chia uống 2 lần trước khi lên cơn sốt rét 2 giờ. Nếu không hết cơn, thèm sài hồ 10g.
Chữa ăn không ngon miệng, đau bụng, sốt, nước tiểu màu sẫm: Cây chó đẻ 1g, nhọ nồi 2g, xuyên tâm liên 1g. Tất cả những vị thuốc trên phơi khô trong râm và tán bột. Sắc bột thuốc này và uống hết ngay một lúc. Uống mỗi ngày 3 lần (Y học dân gian Ấn Độ).
Thầu dầu tía cho bệnh nhân trĩ – Click tìm hiểu ngay


Trồng cây diệp hạ châu
Cây chó đẻ – Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – Tập I – Đỗ Huy Bích cùng các tác giả khác (đã sửa chính tả):
Gần đây, cây chó đẻ mới được nghiên cứu trồng thực nghiệm. Cây không kén đất, ưa ẩm, úng ngập ít ngày cây vẫn sống được.
Tuy có thể nhân giống bằng thân cành, nhưng trong sản xuất chủ yếu áp dụng cách gieo hạt. Thời vụ gieo hạt tốt nhất vào mùa xuân. Các mùa khác cũng gieo được nhưng cây sinh trưởng, phát triển kém.
Chọn đất trồng đủ ẩm, tiện tưới nước. Sau khi làm đất, cần bón lót cho mỗi hecta 10 – 15 tấn phân chuồng, lên thành luống cao 15 – 20cm, rộng 1 – 1,2m rồi gieo hạt, tưới ẩm. Có thể gieo vãi hoặc gieo theo rạch cách nhau 15cm, về sau tỉa định cây giữ khoảng cách giữa các cây từ 10 đến 15cm. Trong quá trình cây sinh trưởng, cần thường xuyên làm cỏ, xới xáo, tưới nước đủ ẩm và dùng 150 – 200 kg/ha urê chia làm 2 – 3 lần để bón thúc cho cây. Chưa phát hiện sâu bệnh gì đáng kể.
Vọng cách là cây gì, công dụng ra sao ??
Địa chỉ bán hạt giống diệp hạ châu uy tín, chất lượng ?
Địa chỉ: Ngách 68/45, ngõ 68, đường Nguyễn Văn Linh, Long Biên. Đối diện với Tổng công ty may 10, Hà Nội.
- Quý khách xin vui lòng liên hệ với Nhà vườn Hải Đăng để được các chuyên viên của chúng tôi tư vấn lựa chọn sản phẩm hạt giống diệp hạ châu phù hợp.
- Chúng tôi sẽ chụp ảnh sản phẩm cho quý khách nếu có yêu cầu.
- Chúng tôi sẽ kiểm tra kỹ hàng hóa đảm bảo chất lượng và đúng quy cách trước khi giao.
- Quý khách ở xa vui lòng tiến hành chuyển khoản trước hoặc đặt cọc trước. Nếu quý khách ở nội thành có thể áp dụng ship nhanh với chi phí 50k một lần ship.








