Độ hoàn thiện nội dung: 60%.
Cỏ ngọt hay còn được gọi là cúc ngọt, tên tiếng Anh là candyleaf, sweetleaf, sugarleaf, … (danh pháp khoa học là Stevia rebaudiana (Bertoni) Bertoni) là một loài thực vật có hoa thuộc họ Cúc Asteraceae. Cỏ ngọt vốn có nguồn gốc từ châu Mỹ, hiện nay đã được trồng ở nhiều nơi chủ yếu để lấy lá làm chất tạo ngọt và dùng làm thuốc. Các chất tạo ngọt từ cỏ ngọt được gọi chung là stevia và được bán dưới nhiều tên thương mại khác nhau. Chất tạo ngọt trong stevia là nhiều loại steviol glycoside khác nhau (chủ yếu là stevioside và rebaudioside), có độ ngọt gấp 200 – 300 lần đường mía (Raji A. Abdullateef et al.; 2012). Lá cỏ ngọt chứa khoảng 9,1% stevioside và 3,8% rebaudioside A (S K Goyal et al.; 2010).


Mô tả cây cỏ ngọt
Cây cỏ ngọt – Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – Tập I – Đỗ Huy Bích cùng các tác giả khác (đã sửa chính tả):
Cây thảo nhỏ, sống nhiều năm, cao 0,5 – 0,6m, có khi đến 1m. Thân cứng mọc thẳng, có rãnh dọc và nhiều lông đen, ít phân nhánh. Lá mọc đối, hình mác hoặc bầu dục, gốc thuôn, đầu tù hoặc hơi nhọn, dài 5 – 7cm, rộng 1 – 1,5cm, có 3 gân, 4 – 6 đôi răng nhọn ở phân nửa về phía đầu lá, hai mặt có lông trắng mịn, nhấm lá thấy có vị ngọt rất đậm; cuống lá rất ngắn.
Hoa lưỡng tính, tụ họp thành đầu màu trắng ở ngọn thân. Quả bế, không có mào lông, hạt không có nội nhũ. Mùa hoa: tháng 5 – 9.
Chậu treo vẩy rồng cho khách nào cần
Thông tin thêm
1. Phân bố, sinh thái
Cây cỏ ngọt – Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – Tập I – Đỗ Huy Bích cùng các tác giả khác (đã sửa chính tả):
Chi Stevia Cav. không có một đại diện nào ở vùng châu Á. Cỏ ngọt đang được phổ biến trồng ở Việt Nam hiện nay, được nhập nội từ một nước Nam Mỹ (nguồn gốc ở Paraguay) năm 1988.
Cỏ ngọt là cây ưa ẩm và ưa sáng, có thể chịu bóng hoặc ưa bóng vào thời kỳ cây con. Vốn là cây ở vùng nhiệt đới, cỏ ngọt trồng ở Việt Nam sinh trưởng, phát triển tốt vào vụ xuân – hè. Về mùa đông, cây có hiện tượng rụng lá và hơi bị tàn lụi. Cây ra hoa quả nhiều hàng năm. Tuy nhiên, người ta vẫn thường áp dụng cách nhân giống bằng cắm cành.
2. Thành phần hóa học
Cây cỏ ngọt – Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – Tập I – Đỗ Huy Bích cùng các tác giả khác (đã sửa chính tả):
Lá cỏ ngọt chứa:
- Các ent-kauren diterpene glycoside: Stevioside (2,2 – 18,5%), rebaudioside A, B, C, D, E, dulcoside, steviobioside. Các thành phần này có vi ngot ở các mức độ khác nhau.
- Các labdane diterpene gồm jhanol, austroinulin, 6-O-acetylaustroinulin.
- Các triterpene gồm β-amyrin acetate, lupeol.
- Các thành phần khác gồm β-sitosterol, stigmasterol, tanin và tinh dầu (0,12 – 0,43%). Các thành phần chính (43%) trong tinh dầu là caryophyllene oxide và spathulenol (A.Y. I.eung và cs., 1996; Martelle A và cs., 1985).
- Stevioside (13-[(2-O-β-D-glucopyranosyl-α-D-glucopyranosyl)oxy]kaur-16-en-18-oic acid β-D-glucopyranosyl ester) là hoat chất chính. Đó là những tinh thể dễ chảy nước, có điểm chảy 198o, [α]D50 -39,3o (c = 5,7 trong nước), có đô ngọt gấp 150 – 300 lần đường mía (tùy theo cách trồng và chăm bón). 1g stevioside tan trong 800 ml nước, tan trong dioxane, hơi tan trong alcol (The Merck index 12th ed. 1996).
Hàm lượng stevioside trong cỏ ngọt là 3 – 20% tùy theo giống và các điều kiện trồng trọt, thu hoạch.
Cách chiết xuất stevioside từ cỏ ngọt như sau: Chiết bằng nước, sau đó khử tạp bằng ethyl acetat hoặc than hoạt tính, tách hỗn hợp glycoside bằng n-butanol, cuối cùng bằng methanol ở nhiệt độ dưới 10oC (Đặng Thị An và cs., 1995).


3. Tác dụng dược lý
Cây cỏ ngọt – Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – Tập I – Đỗ Huy Bích cùng các tác giả khác (đã sửa chính tả):
Tác dụng hạ đường huyết:
– Thử trên thỏ gây tăng đường huyết do alloxan: Cao nước lá cỏ ngọt có tác dụng làm giảm đường huyết ở thỏ.
– Trên chuột cống trắng: Cho ăn chế độ ăn nhiều carbohydrate có trộn vào đó 0,1% stevioside, thấy glycogen gan giảm hơn so với lô chứng, nhưng hàm lượng glucose – huyết không giảm.
Cũng trên chuột cống trắng, với một chế độ ăn giàu carbohydrate, có thêm 10% bớt lá cỏ ngọt tương ứng với 0,5% stevioside trong thực đơn, làm giảm có ý nghĩa glucose – huyết và glycogen gan sau 4 tuần cho ăn.
Khi uống dài ngày, cả stevioside và bột lá cỏ ngọt không gây ra những thay đổi có ý nghĩa về sự tiêu thụ thức ăn, sư phát triển cơ thể.
– Cũng trên chuột cống trắng, cho một chế độ ăn giàu chất béo kèm 0,1% stevioside, không thấy có sự thay đổi có ý nghĩa về glycogen gan và glucose – huyết.
– Một nghiên cứu khác cũng trên chuột cống trắng, cho một chế độ ăn có 0,1 – 0,5% stevioside trong thời gian 30 – 56 ngày. Kết quả cũng không thấy có thay đổi có ý nghĩa về mức glucose – huyết.
– Thử nghiệm lâm sàng ở Paraguay (1970) trên những bệnh nhân đái tháo đường thấy trung bình mức glucose – huyết giảm 35%. Một thử nghiệm khác ở Brazil (1981) vớt liều mỗi lần 0,25g stevioside, ngày 4 lần, cũng làm đường huyết giảm rõ rệt.
Tác dụng giãn mạch: Stevioside có tác dụng giãn mạch toàn thân rõ rệt.
Tác dụng trên thận và huyết áp:
– Thử trên lưu lượng huyết tương qua thận (RPF) và tốc độ lọc cầu thận (GFR): Ở chuột cống trắng bình thường, stevioside làm tăng cả 2 thông số. Tác dụng tăng GFR là do thuốc làm giãn mạch tới tiểu cầu thận và cả mạch từ đó ra.
– Truyền stevioside cho chuột cống trắng cao huyết áp, cũng làm tăng cả RPF và GFR. Kết quả này cũng xảy ra ở chuột cống trắng bị cao huyết áp do gây mô hình thực nghiệm tổn thương thận.
– Trên chuột cống trắng bình thường và cả chuột gây cao huyết áp thực nghiệm, stevioside đều có tác dụng làm hạ huyết áp, tăng bài niệu và tăng thải trừ natri.
– Thử trên người có huyết áp bình thường uống chè cỏ ngọt trong 30 ngày liền, thấy huyết áp ở cả 2 thì tâm trương và tâm thu đều hạ khoảng 9,5%.
Tác dụng tránh thai: Nghiên cứu của PLANAS (năm 1968) đã thông báo, cho chuột cống trắng cái và dực uống nước có 5% cao cỏ ngọt thấy có tác dụng ngừa thai. Nhưng trong những năm 70, bốn nhóm thực nghiệm độc lập, không xác nhân tác dụng này.
Tác dụng kháng khuẩn: Cao lá cỏ ngọt có tác dụng đối với Pseudomonas aeruginosa và Proteus vulgaris. Chưa thấy tài liệu công bố về tác dụng trên các vi khuẩn Streptococcus mutans, Lactobacillus plantarum và Lactobacillus casei là những vi khuẩn có liên quan đến quá trình sún răng ở trẻ em, vì hiện nay có dùng stevioside thay thế đường trong chế biến bánh kẹo.
Liều dùng an toàn ở người: Nóng độ stevioside trong một số nước giải khát ở Nhật Bản là 0,005 – 0,007%. Nếu một ngày uống 1 lít thì lượng stevioside dưa vào cơ thể là 0,05 – 0,07g tương ứng với khoảng 1g lá cỏ ngọt. Điều đó có thể được chấp nhận vì là liều an toàn, đã được Nhà nước Nhật cho phép.
Độc tính cấp: Cho chuột uống stevioside với liều 2g/kg không thấy có chuột chết và cũng không có biểu hiện độc sau 2 tuần theo dõi.
Độc tính bán cấp: Cho chuột cống trắng ăn liều hàng ngày 0,5g/kg trong 56 ngày. Các thông số theo dõi gồm cân nặng, các chỉ tiêu huyết học, các chỉ tiêu hóa sinh và xét nghiệm tổ chức học gan đều bình thường.
Độc tính trên thận:
– Thí nghiệm trên chuột cống trắng: Liều cao stevioside có thể gây độc với thận, làm tăng urê và creatinine huyết thanh.
– Tiêm tĩnh mạch cho chuột cống trắng, liều 0,4; 0,8; 1,2 và 1,6g/kg rồi theo dõi độ thanh thải của một số chất có so sánh với lô chúng, thấy từ liều 0,8g/kg trở lên:
⇒ Độ thanh thải inulin không thay đổi, chứng tỏ chức năng lọc của cầu thận không bị ảnh hưởng.
⇒ Độ thanh thải của glucose tăng, chứng tỏ chức năng tái hấp thu của ống lượn gần bị suy giảm, một phần glucose không được tái hấp thu và đã bị thải trừ qua nước tiểu.
⇒ Độ thanh thải của stevioside cao hơn độ thanh thải inulin, chúng tỏ stevioside có thể còn bị thải trừ qua niêm mạc của ống thận.
⇒ Ngoài ra, stevioside còn gây bài niệu tăng thải natri niệu và làm tăng độ thanh thải của paraaminohippuric.
– Tiêm dưới da cho chuột cống trắng với liều 1,5g/kg, kết quả thấy:
⇒ Những thay đổi giống các thí nghiệm trên là tăng nồng độ urê và creatinine trong huyết thanh, thấy glucose trong nước tiểu.
⇒ Ngoài ra về tổ chức bệnh học, thấy có biến đổi hình thái ở tế bào niêm mạc ống lượn gần. Những tổn thương này là do hoạt động của 2 enzyme phosphatase kiềm và gamma-glutamyltransferase tăng lên. Những enzym này khu trú chủ yếu điểm bàn chải của tế bào ống lượn gần.
Khả năng gây đột biến:
Nhiều thực nghiệm nghiên cứu khả năng gây đột biến trên các chủng Salmonella typhimurium TA 98, TA 100, TA 1535, TA 1538 và TM 677, hoặc trên chủng Escherichia coli WP2 đều xác nhận cao cỏ ngọt, stevioside và steviol là aglycone của stevioside không gây đột biến.
Có nghiên cứu cho biết một số chất chuyển hóa của stevioside lai có thể gây đột biến. Mặc dù stevioside không bị chuyển hóa trong cơ thể và thải trừ nguyên vẹn qua nước tiểu. Song người ta lo ngại một số tạp khuẩn vùng manh tràng có thể phân giải được stevioside.


Cỏ ngọt có tác dụng gì ?
Cỏ ngọt có vị ngọt rất đậm, có ích cho người đái tháo đường và người béo phì, thuốc ít độc
Công dụng của cỏ ngọt:
Chữa đái tháo đường: Nhiều tài liệu đã xác định tác dụng chống đái tháo đường của cỏ ngọt và stevioside, nhưng cũng có công trình nghi ngờ các tác dụng này. Dù sao cỏ ngọt và stevioside có vị ngọt sẽ làm giảm nhu cầu chất đường và chất bột của người bệnh, vì thế sẽ làm giảm đường huyết. liều dùng theo thử nghiệm ở Brazil là mỗi lần 0,25g stevioside (hoặc 2,5g lá cò ngọt), ngày 4 lần. Uống nhiều ngày.
Chữa béo phì: Cỏ ngọt và stevioside làm giảm nhu cầu chất bột và chất đường của cơ thể, nên cũng có tác dụng chữa béo phì. Liều dùng 0,5 – 1g stevioside chia ra 3 – 4 lần trong ngày. Uống nhiều ngày.
Lá cỏ ngọt hoặc stevioside thường dùng làm chất điều vị cho cúc loại trà thuốc, trà túi lọc. Tỷ lệ lá cỏ ngọt hoạc stevioside trong đó thường thấp. Ở Việt Nam, cũng đã có một số chế phẩm trà thuốc có cỏ ngọt như:
- Trà atiso – stevia.
- Trà sâm quy – stevia có sâm khu 5, tam thất, đương quy, thục địa, táo, long nhãn, ngũ gia bì và cỏ ngọt.
- Trà nhân trần, thảo quyết minh, cỏ ngọt.
Tham khảo sản phẩm Phân trùn quế cho nhà nông


Kỹ thuật trồng cỏ ngọt
Cây cỏ ngọt – Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – Tập I – Đỗ Huy Bích cùng các tác giả khác (đã sửa chính tả):
Có ngọt có thể trồng trên nhiều loại đất, tốt nhất là đất nhẹ, trung tính, nhiều mùn, thoát nước. Đất cần được làm sạch cỏ, cày bừa kĩ, lên thành luống cao 30cm, rộng 1 – 1,2m.
Có thể nhân giống có ngọt bằng gieo hạt hoặc giâm cành. Cả hai cách đều tiến hành vào mùa xuân. Hạt cỏ ngọt rất nhỏ, nhẹ, vì vậy đất vườn ươm cần làm kỹ, tưới ẩm mặt luống trước khi gieo, sau đó phủ bằng rơm, rạ. Sau 4 – 5 ngày, hạt sẽ nảy mầm, sau một tháng rưỡi đến hai tháng có thể đánh cây con đi trồng. Trong sản xuất, chủ yếu áp dụng phương pháp giâm cành. Vào buổi chiều mát hoặc ngày râm, cắt lấy những ngọn khỏe, không có sâu bệnh, có 4 – 5 lá, nem giâm vào cát sông sạch và giữ độ ẩm vừa phải. Cành cỏ ngọt ra rễ tốt nhất ở nhiệt độ 25 – 30oC, độ ẩm không khí 85 – 90%, vì vậy nên làm giàn che bảng polyethylene. Ở điều kiện thuận lợi, cành giâm ra rễ sau 7 – 10 ngày. Cũng có thể xử lý cành giâm bảng cách nhúng nhanh trong dung dịch auxin để kích thích ra rễ.
Sau khi cây ra rễ, dùng nước phân chuồng, nước giải pha loãng có bổ sung một ít lân và kali để tưới thúc. Sau 10 – 12 ngày, cần dỡ bỏ giàn che và hạn chế tưới ẩm để cây mau cứng cáp. Đến ngày thứ 14 – 15, cần bấm ngọn để kích thích ra chồi nhanh. Sau khi bấm ngọn 3 tuần, cây sẵn sàng có thể đem trồng ra ruộng.
Thời vụ trồng cỏ ngọt tốt nhất là vào tháng 2 – 3, khi nhiệt độ không khí không thấp hơn 15 – 20oC. Trồng muộn, cây chóng ra hoa, ảnh hưởng tới năng suất. Sau khi làm đất, bón phân lót, cây con được đánh từ vườn ươm ra trồng với khoảng cách 30 x 15cm hoặc 30 x 30cm, ở độ sâu 1,5 – 2cm. Trồng xong nên tưới ngấm qua rãnh để tránh đóng váng. Trong tuần đầu, hàng ngày nên tưới nhẹ 1 – 2 lần. Về sau, việc tưới nước tùy thuộc vào tình hình thời tiết.
Cỏ ngọt trồng một lần có thể thu hoạch trong 2 – 3 năm. Mỗi năm, cây cần một lượng phân bón như sau (tính cho 1 ha): Đạm sulfat 500kg, supe lân 550kg, kali sulfat 200g, phân chuồng hoại mục 15 – 20 tấn. Dùng 1/2 lượng phân chuồng, 1/2 lương lân và 1/4 lượng kali để bón lót.
Sau khi trồng, trong 6 tháng đầu, dùng 1/2 lượng phân đạm và 1/2 lượng kali để tưới sau mỗi lần thu hoạch. Số đạm và kali còn lại dùng tưới sau mỗi lần thu hoạch trong các tháng tiếp theo. Trước mùa đông, bón nốt số phân chuồng và lân còn lại. Sau khi cắt hết phần trên mặt đất, dùng số phân này phủ lên ruộng. Lớp phân này, ngoài tác dụng cung cấp dinh dưỡng còn có tác dụng giữ ấm cho cây qua đông. Có thể dùng tro bếp, cát hoặc đất bột để thay thế một phần số phân này.
Sau khi trồng 7 – 10 ngày, cản kiểm tra đồng ruộng và cấy dặm những cây bị chết. Thường xuyên bấm ngọn để cây ra chồi. Ruộng cỏ ngọt cần được xới xáo, vun gốc, làm cỏ thường xuyên, nhất là sau những trận mưa to.
Có ngọt thường bị nhện đỏ, rệp, sâu róm, các loại nấm và tuyến trùng gây hại. Đế tăng sức đề kháng của cây, cần đảm bảo đủ dinh dưỡng, tưới tiêu hợp lý, xới xáo, làm cỏ và thu hoạch kịp thời. Nên ngâm ruộng trước khi trồng để phòng tuyến trùng. Đối với nấm hại lá, có thể dùng Boóc-đô hoặc các loại thuốc bệnh có đồng để phun, muộn nhất là 30 – 40 ngày trước khi thu hoạch.
Cò ngọt thu hoạch trước lúc ra nụ hoa có chất lượng tốt nhất,. Khi cắt, cần để lại trên gốc cây 2 – 5 đôi lá. Riêng lứa cuối cùng trong năm nên cắt cụt sát mặt đất để cây qua đông an toàn và tái sinh thuận lợi khi mùa xuân đến. Cần thu hoạch vào buổi sáng sớm những ngày nắng ráo. Thu xong rửa sạch, phơi khô ngay đến độ ẩm dưới 10% và bảo quản nơi khô ráo. Năng suất trung bình đạt khoảng 4 tấn lá khô/3 lứa cắt/ha.
Mua cây cỏ ngọt ở đâu tại Hà Nội uy tín ?
Địa chỉ: Ngách 68/45, ngõ 68, đường Nguyễn Văn Linh, phường Long Biên, thành phố Hà Nội.
- Quý khách xin vui lòng liên hệ với Nhà vườn Hải Đăng để được các chuyên viên của chúng tôi tư vấn lựa chọn sản phẩm cây cỏ ngọt phù hợp.
- Chúng tôi sẽ chụp ảnh sản phẩm cho quý khách nếu có yêu cầu.
- Chúng tôi sẽ kiểm tra kỹ hàng hóa đảm bảo chất lượng và đúng quy cách trước khi giao.
- Quý khách ở xa vui lòng tiến hành chuyển khoản trước hoặc đặt cọc trước. Nếu quý khách ở nội thành có thể áp dụng ship nhanh với chi phí 50k một lần ship.
Tài liệu tham khảo
- Cây cỏ ngọt – Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – Tập I – Đỗ Huy Bích cùng các tác giả khác.
- Raji A. Abdullateef, Mohamad bin Osman (1/1/2012). “Studies on effects of pruning on vegetative traits in Stevia rebaudiana Bertoni (Compositae)”. International Journal of Biology. 4(1).
- S K Goyal et al. (2/2010). “Stevia (Stevia rebaudiana) a bio-sweetener: a review”. International Journal of Food Sciences and Nutrition. 61(1):1 – 10.
Tìm kiếm liên quan
- Uống trà cỏ ngọt có tốt không
- Tác dụng cỏ ngọt
- Mua cỏ ngọt
- Trồng cỏ ngọt
- Cây cỏ ngọt Mỹ
- Tại sao cỏ ngọt lại ngọt
- Hình ảnh cây cỏ ngọt
- Uống trà cỏ ngọt có béo không
Sản phẩm liên quan: Câu kỷ tử
