Độ hoàn thiện nội dung: 80%.
Cà rốt dại, tên tiếng Anh là wild carrot, European wild carrot, bird’s nest, bishop’s lace, carrot flower, Queen Anne’s lace (danh pháp khoa học là Daucus carota L.), là một loài thực vật có hoa thuộc họ Hoa tán Apiaceae. Cà rốt ăn hiện nay là các giống của phân loài Daucus carota subsp. sativus.


Mô tả cây giống cà rốt dại
Cây cà rốt – Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – Tập I – Đỗ Huy Bích cùng các tác giả khác (đã sửa chính tả):
Cây thảo, sống hai năm. Rễ (thường gọi là củ) hình trụ ngắn, màu vàng hoặc vàng đỏ. Lá mọc so le, xẻ lông chim, càng gần phía đầu càng hẹp lại, không có lá kèm, bẹ lá khá phát triển.
Cụm hoa mọc ở ngọn thân thành cán kép có tổng bao gồm nhiều lá bắc xẻ lông chim; mỗi tán đơn có tiểu bao gồm lá bắc nhỏ nguyên hoặc xẻ, nhiều hoa không đều ở vòng ngoài và những hoa lưỡng tính đều ở vòng trong. Ở giữa là một hoa không sinh sản, màu đỏ tía. Hoa có lá đài rất nhỏ, hình tam giác, cánh hoa có mép gập vào trong, số nhị bằng số cánh hoa, bầu hạ 2 ô, mỗi ô chứa một noãn. Quả bế, thuôn, có cạnh lồi tua tủa những tua cuốn. Mùa hạ: tháng 4 – 5.
Thông tin thêm
1. Phân bố và sinh thái
Cây cà rốt – Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – Tập I – Đỗ Huy Bích cùng các tác giả khác (đã sửa chính tả):
Chi Daucus L. chỉ có một loài duy nhất là cà rốt. Qua quá trình trồng trọt và chọn lọc người ta đã tạo ra nhiều giống mới và biến chủng. Trong phân loại thực vật, chúng được chia thành 13 phân loài (subspecies). 12 phân loài thuộc về những đại diện mọc hoang dai. Còn lại tất cả các giống cà rốt trồng được xếp vào một phân loài. Có hai giống cà rốt chính trồng phổ biến trên thế giới là:
– Cà rốt củ tía: Có nguồn gốc ở vùng núi Himalaya và Hindu – Kush thuộc Afghanistan. Từ xa xưa, các bộ lạc ở đây đã thuần hóa, dưa cà rốt củ tía vào trồng. Sau đó cây được phổ biến sang các nước xung quanh như lran, Ấn Độ, Nga, Pakistan. Các giống cà rốt củ tía được nhập vào vùng Địa Trung Hải và Tây Âu vào khoảng thế kỷ XI đến thế kỷ XIV – XVII, mới đưa vào Trung Quốc, Nhật Bản và các nước châu Á khác.
– Cà rốt củ màu vàng hay vàng đó hiện chưa rõ nguồn gốc, nhưng lại là giống được trồng rộng rãi nhất trên thế giới. Các giống cà rốt đang được trồng ở Việt Nam cũng thuộc nhóm này.
Cà rốt là loại cây ưa sáng, ưa vùng có khí hậu ẩm mát. Nhiệt độ thích hợp cho cây sinh trường thường dưới 20oC. Ở Việt Nam, cây chỉ được trồng từ cuối thu đến đầu xuân. Ở vùng núi cao trên 1500m như Sapa, Đà Lạt, người ta trồng cà rốt thành nhiều vụ trong năm. Cây ra hoa kết quả nhiều. Hoa thụ phấn nhờ côn trùng. Tỷ lệ nảy mầm của hạt là 70 – 80%.
Trên thế giới, cà rốt là một loại rau xanh quan trọng. Tổng diện tích trồng cà rốt hàng năm là 600.000ha, sản lượng khoảng 13 triệu tấn. Trung Quốc và các nước thuộc Liên Xô cũ cũng trồng nhiều cà rốt nhất.


2. Thành phần hoá học
Cây cà rốt – Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – Tập I – Đỗ Huy Bích cùng các tác giả khác (đã sửa chính tả):
Rễ cà rốt chứa glucid 9 – 10%, protein 1%, chất béo (vết) và hai chất có thể kết tinh dược là hydrocarotin (??) và carotene (Dorvault, 1995).
Theo tài liệu khác, rễ có α-carotene, β- carotene 60 – 83% trong tổng số carotenoid, γ-carotene, ε-carotene, lycopene, vitamin B1 56 – 101 µg/100g, vitamin B2 50 – 90 µg/100g, vitamin C dưới dạng phức protein – acid ascorbic, vitamin D, đường, dầu béo 0,1 – 0,7%, tinh dầu 0,014% trong đó có camphene, umbelliferone, pectin 16,82 – 18,75% (tính theo dược liệu khô), acid hữu cơ (acid caffeic), nhiều loại enzym (sucrase, amylase, catalase), phytin 5,27%, nhiều loại nguyên tố Fe, Al, Mn, Cu, Zn, As, Cr, I, Br, Cl, U, Li.
Quả chứa tinh dầu và 11 – 13% dầu béo. Tinh dầu có limonene, cineol, geraniol, citronellol, citral, caryophyllene, carotol, daucol, p-cymene, asarone. Dầu béo có acid petroselinic, acid oleic, daucosterol (Trung dược Từ Hải II và III, 1996, 1997; The Wealth of India III, 1952).
Theo tài liệu khác, hạt chứa 0,05 – 7,15% tinh dầu, trong dó có α-pinene tới 13,30%, β-pinene carotol tới 18,29%, daucol, limonene, β-bisabolene, β-elemene, cis-β-bergamotene, γ-decalactone, β-farnesene, geraniol, geranyl acetate có 10,39%, caryophyllene oxyd, methyleugenol, nerolidol, eugenol, trans-asarone, vanillin, asarone, α-terpineol, terpinen-4-ol, γ-decanolacion, coumarin, β-selinene. Các thành phần khác là acid palmitic, acid butyric (A. l. cung và cộng sự 1996).
Hàm lượng geraniol trong tinh dầu có thể đạt 50% (Trung dược chí III, 1993).
Ba flavon glycosid là apigenin-4′-O-β-D-glucoside, kaempferol-3-O-β-glucoside và apigenin-7-O-β-D-galactopyranosyl-(1-4)-β-D-mannopyranoside đã được phân lập từ hạt cà rốt (Gupta K.R và cs 1992).
Shaaban Eman G. (CA. 125, 1994, 2512492) đã chứng minh lá cà rốt chưa ra hoa chứa 3-O-β-glucoside và 2 flavonoid aglycon là apigenin và chrysoeriol.
Nếu bảo quản củ cà rốt (sau khi loại bỏ lá) ở nhiêt độ 0 đến 4o, 5 trong 6 tháng hoặc ở 10oC trong 3 tháng thì hầu như thành phần hóa học không thay đổi.
3. Tác dụng dược lý
Cây cà rốt – Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – Tập I – Đỗ Huy Bích cùng các tác giả khác (đã sửa chính tả):
Rễ cà rốt có tác dụng giảm đau thể hiện ở khả năng của cao rễ khi áp dụng cho chuột nhắt trắng đã làm mất phản ứng quằn quại gây nên khi tiêm phúc mạc cho chuột 0,25ml dung dịch 0,02% phenylquinone.
Tinh dầu hạt cà rốt có tác dụng kháng khuẩn đối với Bacillus subtilis và Salmonella typhimurium ở nồng độ 0,2%, nhưng hoàn toàn không có hoạt tính đối với Escherichia coli, Klebsiella pneumoniae và Salmonella stanley.
Liều thấp của nhũ dịch với nước của tinh dầu hạt cà rốt gây hạ huyết áp nhất thời ở chó gây mê mà không ảnh hưởng đến hô hấp, nhưng liều cao hơn gây hạ huyết áp kéo dài, đồng thời cùng gây ức chế hô hấp. Tinh dầu này gây tác dụng trực tiếp ức chế tim ếch và tim chó trong thí nghiệm mở ngực, có tác dụng giảm đau và ức chế rõ rệt hệ thần kinh trung ương ở chuột cống trắng. Nó có tác động chống lại những co giật gây bởi strychnin ở ếch với mức độ vừa phải, gây giãn ruột cô lập chuột cống trắng và thỏ và tử cung cô lập chuột cống trắng. Nó có tác dụng chống co thắt gây bởi acetylcholin trên những cơ quan cô lập nêu trên cũng như trên cơ xương cô lập của ếch.
Hạt cà rốt có tác dụng lợi tiểu. Cà rốt làm tăng lượng nước tiểu và giúp thải trừ acid uric. Củ cà rốt bổ sung với lượng lớn vào chế độ ăn có tác dụng tốt trên cân bằng nitơ. Một phân đoạn màu vàng thu được từ cao chiết dầu hỏa, khi hòa tan trong dầu hạnh nhân và tiêm cho người, thỏ hoặc chó, đã gây giảm đường máu rõ rệt mà không thấy có tác dụng đáng kể khác.
Khi sử dụng rễ cà rốt làm thực phẩm, việc nấu chín làm mất nhiều giá trị dinh dưỡng của cà rốt. Người ta đã nhận xét thấy chỉ 20% tổng lượng carotene được hấp thụ khi ăn cà rốt sống dưới dạng nạo sợi nhỏ. Khi ăn cà rốt nạo sợi to và cà rốt nấu chín, chi 5% carotene được hấp thụ. Nguyên nhân hấp thụ kém được quy cho tính thấm kém của thành tế bào đối với carotene. Ngay cả sau khi nấu chín, với kết quả là phần lớn carotene vẫn còn bị giữ lại bên trong các tế bào thực vật.
Cao cồn hạt cà rốt với những liều 50, 150 và 500mg/kg. dùng riêng hoặc kết hợp với oestradiol propionate cách ngày trong 42 ngày cho chuột cống trắng đã cắt bỏ buồng trứng, thấy có hoạt tính gây động dục rõ rệt, nhưng tương đối yếu, dựa trên sự thay đổi về trọng lượng của cơ quan sinh sản và hình ảnh mô học và hóa sinh của tử cung. Cao hạt cà rốt có tác dụng dự phòng sư phì đại bù chỉnh của buồng trứng còn lại của chuột cống trắng đã bị cắt bỏ một bên buồng trứng, có thể so sánh được với tác dung của việc cho hằng ngày 10µg oestradiol.
Trong thử nghiệm về hoạt tính chống rụng trứng trên thỏ, cao hạt cà rốt chiết với xăng và cồn đã biểu lộ hoạt tính chống rụng trứng tương ứng là 20% và 40%, cao nước không có tác dụng. Năm phân đoạn chiết xuất bằng phương pháp sắc ký từ những cao khác nhau của hạt cà rốt đã được chứng minh có hoạt tính chống sinh sản ở chuột cống trắng cái. Phân đoạn tan trong methanol từ cao hạt cà rốt chiết với xăng biếu lộ tác dung ức chế rõ rệt có bóp tự nhiên và co bóp gây bởi oxytocin trên tử cung, và ức chế co bóp gây bởi histamin trên hồi tràng có lập chuột lang. Phân đoạn này làm tăng đáp ứng gây bởi acetylcholin trên cơ xương, không thấy tác dụng có ý nghĩa trên huyết áp thỏ, huyết áp và hô hấp chó, và trên điện tâm đồ của chuột lang.
Đã nghiên cứu tác dụng của cao cồn hạt cà rốt kết hợp với progesteron và với oestrogen và progesteron trên cả hai lớp của tử cung chuột cống trắng, nhận xét thay những thay đổi có ý nghĩa trong quần thể dưỡng bào ở cả hai lớp của tử cung. Tinh dầu hạt cà rốt thể hiện tác dụng ức chế khả năng sinh sản và gây sảy thai trên chuột nhắt trắng. Đã phân lập bằng sắc ký cột và nhận dạng một trong những hoạt chất là β-bisabolene. Có thể có mối liên quan giữa hoạt tính chống sinh sản của tinh dầu hạt cà rốt và sự giảm mức progesterone huyết tương, và sự ức chế phản ứng màng rụng. Trong thử nghiệm sừng hóa âm đạo trên chuột nhắt trắng cắt bỏ buồng trứng, đã chứng minh phân đoạn này không có hoạt tính gây động dục cũng như kháng động dục. Ở nồng độ cao, phân đoạn này ức chế co bóp của tử cung cô lập chuột cống trắng ở thời kỳ đầu mang thai.
Đã nghiên cứu tác dụng của bột hạt cà rốt trên kiến trúc sinh duc của buồng trứng và tử cung chuột cống trắng cái với những liều 50, 75 và 100mg/kg/ngày/trong 30 ngày. Những liều 75 và 100mg/kg/ngày đã làm giảm có ý nghĩa trọng lượng cơ quan sinh dục. Hạt cà rốt không ảnh hưởng đến thể trong chuột. Kiến trúc tế bào của buồng trứng, và tử cung đều bị ảnh hưởng, dẫn đến sự thoái hóa toàn bộ Hạt cà rốt có thể có ích trong việc sử dụng để ngừa thai.


4. Cách trồng cà rốt
Cây cà rốt – Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – Tập I – Đỗ Huy Bích cùng các tác giả khác (đã sửa chính tả):
Cà rốt được trồng ở cả vùng núi, trung du và đồng bằng, tập trung ở các vùng rau quanh các đô thị. Cây ưa đất cát pha, đất thịt nhẹ, nhiều mùn, đủ ẩm, tiện tưới tiêu, đủ ánh sáng, không chịu úng.
Cà rốt được nhân giống bằng hạt, hệ số nhân giống rất cao, vì cây có nhiều hạt và hạt dễ nảy mầm. Khi cây ra hạt, củ xốp không dùng được. Thời vụ gieo trồng tốt nhất là vào tháng 9 – 10. Hiện nay còn có cà rốt trái vụ, gieo sớm hoặc muộn.
Đất trồng cà rốt cần cày bừa kỹ, để ải, vơ sạch cỏ, lên luống cao 25 – 30cm, rộng 0,8 – 1m, rạch thành hàng ngang trên mặt luống, cách nhau 15 – 20cm. Phân lót thường bón từ 20 – 27 tấn phân chuồng hoại mục, 200 – 270kg phân lân, 100 – 135kg kali cho 1 ha. Phân được trộn đều với đất theo rach trước khi gieo hạt.
Hạt cà rốt rất nhỏ. Nên trộn hạt với cát hoặc đất bột để gieo theo rạch. Gieo xong, dùng tay xoa nhẹ cho hạt bám vào đất. Sau đó, dùng rơm, rạ phủ lên và tưới ẩm. Khi hạt mọc, cầu dỡ bỏ rơm ra kịp thời để cây không bị lướt.
Cà rốt là cây ngắn ngày, cần được chăm sóc chu đáo. Ruộng phải luôn sạch cỏ, đủ ẩm. Khi cây cao 10 – 15cm, bắt đầu tỉa định cây. Có thể tỉa làm nhiều lần, đảm bảo khoảng cách giữa các cây 7 – 10cm. Cứ 20 ngày, dùng nước phân chuồng, phân bạc, nước giải hoặc đạm pha loãng (2 – 3%) để tưới thúc.
Cà rốt thường bị sâu xám hại lúc cây con, sâu xanh hại lúc trường thành. Ở thời kỳ cây con, có thể bị bệnh lở cổ rễ, thối củ. Khi cây bị bệnh, phải ngừng tưới nước và tưới phân và cần xới xáo cho đất thoáng. Gặp mưa phải tháo nước ngay.
Sau khi gieo trồng từ 100 – 120 ngày, có thể thu hoạch củ, thường vào trước hoặc sau tết âm lịch. Nếu chăm bón tốt, năng suất có thể đạt 8 – 10 tấn củ tươi trên 1ha. Củ cà rốt thường được dùng tươi. Do nhu cầu của thị trường, người ta còn bảo quản trong kho lạnh. Hoa cà rốt cũng được thu hoạch để cất tinh dầu, thu đến đâu cất ngay đến đó.
Rễ cà rốt thu hái vào mùa đông, bỏ thân, lá, rễ con, rửa sạch. Quả thu hái từ quả chín đã phơi khô. Lá đôi khi cũng được sử dụng.
Công dụng của cà rốt
Rễ cà rốt có vị ngọt, cay, mùi hăng, tính bình, vào các kinh: tỳ, vị, đại tràng. Có tác dụng hạ khí, bổ trung, yên ngũ tạng, tăng tiêu hóa, bổ huyết. Hạt cà rốt có vị đắng, ẩm, có tác dụng lợi tiểu, sát trùng.
Ngoài công dụng làm thức ăn, rễ cà rốt được dùng cho người gầy còm, thiếu máu, ăn uống chậm tiêu, chữa lỵ mạn tính, trẻ em tiêu chảy, chậm lớn hay răng mọc châm. Ngày dùng 20 – 50g, có thể đến 100g bột rễ phơi khô. Rễ cà rốt còn được dùng làm nguyên liệu chế carotene.
Hạt cà rốt được dùng làm thuốc lợi tiểu, điều kinh, sát trùng, trị giun sán, tiêu chảy, lỵ mạn tính. Ngày dùng 12 – 18g.
Ở Ấn Độ, nước ép rễ cà rốt là nguồn nguyên liệu giàu carotene, được dùng để nhuộm bơ và những thực phẩm khác. Nước sắc cà rốt là một thuốc dân gian để trị giun. Rễ cà rốt nạo sợi nhỏ được áp dụng làm thuốc kích thích tại chỗ đối với những vết thương lâu lành. Để chữa chứng nhức nửa đầu, dùng lá cà rốt hơ nóng, giã nát và ép lấy nước, rồi trộn với bơ lỏng (hoặc dầu thực vật) với tỷ lệ 2:1, và nhỏ 2 – 3 giọt vào lỗ mũi bệnh nhân. Trong y học Trung Quốc, quả cà rốt chín phơi khô được dùng làm thuốc trừ giun. Y học dân gian ở vùng Nam Italia lại dùng nước sắc rễ cà rốt uống để chữa khản giọng, mất tiếng. Trong liệu pháp thực vật ở một số vùng ở Hy Lạp, người ta dùng cụm hoa cà rốt phơi khô, trộn với mật ong, và chế biến thành một chất nhừ nghiền nhuyễn cho trẻ em uống dễ làm dịu ho. Nước sắc hạt điều trị bệnh về tiết niêu. Nước sắc lá làm thuốc chống co thắt, và rễ cà rốt làm thuốc chống tiêu chảy và trừ giun. Ở Ukraina, cà rốt là nguyên liệu chế thuốc điều trị chứng đau thắt ngực.
Bài thuốc có cà rốt:
Chữa tiêu chảy trẻ em: Bột cà rốt khô 50g (hay cà rốt tươi 500g) đun sôi với 1 lít nước thành súp. Trong những ngày đầu, cho trẻ ăn súp cà rốt 100- 150ml/kg/ngày, chia làm 6 lần. Khi có truyền dịch hoặc cho uống nước thì bớt lượng tương đương súp cà rốt. Những ngày sau cho ăn kèm với sữa mẹ hay với sữa bò với lượng sữa tăng dần và lương súp cà rốt giảm dần tương ứng.
Chữa kém ăn, ít ngủ, một mệt sau khi ốm: Rễ cà rốt khô (thái miếng, tẩm mật sao) 30g, cảy vú bò (thái miếng phơi khô), hoài sơn sao, mỗi vị 24g, mạch môn chẻ đôi bỏ lõi sao, ngưu tất, thổ tam thất, mỗi vị 12g, sắc uống.
Địa chỉ bán cây giống cà rốt uy tín chất lượng ?
Địa chỉ: Ngách 68/45, ngõ 68, đường Nguyễn Văn Linh, phường Long Biên, thành phố Hà Nội.
- Quý khách xin vui lòng liên hệ với Cây cảnh Hải Đăng để được các chuyên viên của chúng tôi tư vấn lựa chọn sản phẩm cây giống cà rốt phù hợp.
- Chúng tôi sẽ chụp ảnh sản phẩm cho quý khách nếu có yêu cầu.
- Chúng tôi sẽ kiểm tra kỹ hàng hóa đảm bảo chất lượng và đúng quy cách trước khi giao.
- Quý khách ở xa vui lòng tiến hành chuyển khoản trước hoặc đặt cọc trước. Nếu quý khách ở nội thành có thể áp dụng ship nhanh với chi phí 50k một lần ship.