





Độ hoàn thiện nội dung: 60%.
Cây giống bầu hồ lô chuẩn hàng sẵn sàng trao tay khách. Cây giống gieo trồng trong bầu ươm cao được 10 – 15 phân, phát triển khoẻ mạnh, sạch sâu bệnh và đã đủ tiêu chuẩn xuất vườn.
Bầu hồ lô hay bầu eo, bầu nậm, bầu rượu, tên tiếng Anh là Calabash, bottle gourd (danh pháp khoa học là Lagenaria siceraria (Molina) Standl.; đồng nghĩa: Lagenaria vulgaris Ser.) là loài thuwjc vật thuộc họ Bầu bí Cucurbitaceae.


Mô tả cây bầu hồ lô
Cây bầu – Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – Tập I – Đỗ Huy Bích cùng các tác giả khác (đã sửa chính tả):
Cây thảo leo, dài hàng mét. Thân tròn có nhiều lông, tua cuốn phân nhánh. Lá mọc so le, hình trứng rộng, gốc hình tim, đầu hơi nhọn, mép lá uốn lượn, hai mặt có nhiều lông; cuống lá dài có 2 tuyến nhỏ.
Hoa to, màu trắng, đơn tính cùng gốc; hoa đực mọc đơn độc, 5 cánh rời, nhị 3, hoa cái có vòi ngắn. Quả dài, có những đốm mốc tròn (bầu sao) hoặc hình tròn, có núm nhỏ hình bầu rượu (bầu nậm), khi già hóa gỗ; hạt nhiều, dẹt. Mùa hoa: tháng 3 – 4; mùa quả: tháng 5 – 6.
Thông tin thêm
1. Phân bố và sinh thái
Cây bầu – Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – Tập I – Đỗ Huy Bích cùng các tác giả khác (đã sửa chính tả):
Chi Lagenaria Ser. chỉ có một loài là cây bầu. Cây có nguồn gốc xa xưa từ vùng nhiệt đới châu Phi, sau lan ra khắp các vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới khắc của thế giới. Bầu du nhập vào châu Mỹ, được giả thiết là do sự trôi dạt quả (vỏ quả khi già hóa gỗ rất cứng) qua đại dương, từ trước thời Colombo phát hiện ra tân thế giới. Các kết quả nghiên cứu về khảo cổ học cũng chứng minh bầu đã có cách dày trên 10.000 năm (F. A. Widjaja & M. E. C. Reyes, 1994 in PROSEA N° – 8 – Vegetables. p. 192). Trải qua quá trình trồng trọt lâu dài, loài cây này đã trở nên đa dạng về các giống (cultivars).
Ở Việt Nam, bầu là cây trồng cổ xưa có mặt ở khắp nơi vùng núi và đồng bằng, để lấy quả non làm rau ăn. Căn cứ vào hình dạng, kích thước của quả và vùng trồng, bầu ở Việt Nam hiện có gần 10 loại khác nhau. Loại quả dài và to thường được trồng ở vùng đồng bằng. Một số loại quả tròn, nhỏ với nhiều hình thù đặc biệt, lại được trồng ở vùng núi cao phía bắc, như Lào Cai, Lai Châu, Hà Giang hoặc ở Tây Nguyên.
Song nhìn chung, tất cả các giống bầu đều là cây sống một năm với thời gian từ lúc gieo hạt đến khi cây có quả già và tàn lụi chỉ kéo dài khoảng 3 – 5 tháng. Cây ưa ẩm và khí hậu ôn hòa, được trồng ở vùng thấp vào mùa xuân và ở vùng nhiệt đới núi cao là vào mùa hè – thu. Cây thích nghi với nhiều loại đất có pH 6 – 7, không chịu được ngập úng. Vào thời kỳ ra hoa, nếu gặp thời tiết mây mù hoặc mưa kéo dài, hiệu quả thụ phấn của hoa sẽ bị ảnh hưởng trực tiếp. Hạt bầu có khả năng này mầm tốt trong thời gian bảo quản dưới một năm.
Bầu là cây rau xanh thông dụng của vùng nhiệt đới châu Á và châu Phi. Trong số các nước ở khu vực Đông Nam Á. Philippines và Indonesia có sản lượng bầu hàng năm khoảng vài chục ngàn tấn quả. Ở Việt Nam, trong vài năm gần đây, việc trồng cây thực phẩm này cũng có chiều hướng gia tăng. Một số giống bầu quả nhỏ, có hình dạng độc đáo được trồng ở vùng núi cao (Bát Xát – Lào Cai; Đồng Văn, Mèo Vạc – Hà Giang …), do quả non hơi có vị đắng nên người ta thường để quả già, lấy vỏ quả làm đồ đựng nước hoặc rượu.
2. Thành phần hóa học
Cây bầu – Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – Tập I – Đỗ Huy Bích cùng các tác giả khác (đã sửa chính tả):
Quả bầu tươi chứa 95% nước; 0,5% protid; 2,9% glucid; 1% cellulose; 21 mg% canxi; 25 mg% phospho; 0,2 mg% sắt; carotene 0,02 mg% và các vitamin B1 0,02 mg%; vitamin B2 0,03 mg%; vitamin PP 0,40 mg%; vitamin C 12 mg% (Võ Văn Chi. TDCTVN – 1999 – 79).
Theo tài liệu Ấn Độ (The Wealth of India vol VI. 1962 p. 17, 18, 19), quả bầu có nước 96,3%; protein 0,2%; chất béo (dịch chiết ether) 0,1%; carbohydrate 2,9%; chất vô cơ 0,5%; canxi 0,02%; phospho 0,01%; sắt 0,7mg%; natri 11,0 mg%; kali 86,0 mg% và iốt 4,5 µg/kg. Thành phần acid amin trong quả gồm leucine 0,8 mg/g; phenylalanine 0,9; valine 0,3; tyrosine 0,4; alanine 0,5; threonine 0,2; acid glutamic 0,3; serine 0,6; acid aspartic 1,9; cystine 0,6; cysteine 0,3; arginine 0,4 và proline 0,3 mg/g.
Quả bầu là nguồn nguyên liệu có hàm lượng cao vitamin B và C, các chất khác gồm thiamine 44 µg; riboflavin 23 µg; niacin 0,33 mg; choline 16,02 mg/g và acid ascorbic 13,0 mg/100g; nhiều pectin (21% theo trọng lượng khô) gồm anhydride uronic 58,48%; furfural 20,72%; cucurbitacin B, D, G và H chủ yếu là cucurbitacin B và men β-glucodase (elaterase). Men này hoạt động tối đa ở pH đệm phosphat 4.0 – 5.5, nhiêt độ 50o.
Meng Yenfa; Yang Guolin đã tinh chế và xác định tính chất của men phenylalanine ammonia-lyase trong quả bầu. Men có 4 đơn vị phụ (submit) với trọng lượng phân tử của mỗi đơn vị là 74.000 dalton. Toàn bộ trọng lượng phân tử là 280.000 dalton (CA. 117, 1992, 247510c).
Shirwaikar Annic; Screenivasan K. K đã phân lập từ phần chiết ether dầu của quả bầu (phần này thể hiện tác dụng bảo vệ gan) 2 chất steroid là fucosterol và campesterol (CA 126, 1997, 16775n).
Ngoài ra, quả bầu còn chứa 22-deoxycucurbitacin D, 22-deoxyisocucurbitacin D, acid m. coumarin (TDTH III 1101, II, 1917, 1918).
Hạt bầu chứa các Δ5 sterol như codisterol; 25(27)-dehydroporiferasterol; ferasterol; isofucosterol; stigmasterol; campesterol; 22-dihydrobrassicasterol; sitosterol; 25(27)-dehydrofungisterol; 22(27)-dehydrochondrillasterol; 24β-ethyl-25(27)-dehydrolathosterol; avenasterol; spinasterol; 24-methyllathosterol; 22-dihydrospinasterol và 24-methylenecholesterol (CA. 106, 1987, 153043y); lượng dầu béo trong hạt khá cao 38% gồm các acid palmitic, stearic, oleic và linoleic. Đây là những acid chủ yếu chiếm 50 – 70% tổng số các acid béo trong dầu hạt.
Thành phần carbohydrate trong hạt chỉ gồm glucose và fructose (CA. 115, 1991, 27937z).
Bã hat sau khi đã ép dầu chứa nhiều protein là thức ăn tốt cho trâu bò.
Hạt còn chứa men ức chế trypsin, 2 protein LLDTI I và LLDTT II chứa 30 và 29 đơn vị acid amin là men ức chế mạnh bovine trypsin (CA. 117, 1992, 65350t).
Krauze. Baranowska, Miroslawa Cisowski Wojeich đã phân lập từ bầu các hợp chất C-glycoside flavonoid như saponarin, isovitexin (đồng phân C-6), isoorientin và apigenin 7,4′ diglucosyl-6-C-glucoside.
Saponarin là C – favon glycosid chủ yếu với hàm lượng 2,484% (СА 121, 1994, 152458k; CA 123, 1995, 164496a).
Ngọn và lá bầu chứa các acid amin như leucine 2,3; phenylalanin 1,0; valine 1,0; tyrosine 0,4; alanine 1,1; threonine 0,8; acid glutamic 1,7; serine 0,9; acid aspartic 2,9; cystine 1,7; cysteine 0,4; lysine 5,2; methionine sulfoxide 0,3 và proline 0,3 mg/g, vitamin C và saponin steroid (0,13% so với trong lượng khô) (The Wealth of India vol VI, 1962 17, 18, 19).
3. Tác dụng dược lý
Cây bầu – Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – Tập I – Đỗ Huy Bích cùng các tác giả khác (đã sửa chính tả):
Tác dụng bảo vệ gan: Gây tổn thương gan bằng carbon tetrachloride cho chuột cống trắng. Cao khô chiết cồn quả bầu còn xanh cho uống liều 250mg/kg thấy tác dụng có ý nghĩa. Nếu chiết bằng ether dầu thì cao có hoạt tính mạnh hơn. Hoạt chất cucurbitacin B cũng có tác dụng bảo vệ gan, làm giảm hoại tử gan khi gây tổn thương gan bằng CCl4 ở chuột cống trắng.
Gây tổn thương gan và xơ gan bằng cách dùng lâu dài CCl4 cho chuột cống trắng, thấy cucurbitacin B làm tăng tích lũy glycogen gan, ngăn ngừa được tế bào gan nhiễm mỡ và ức chế được sự tăng sinh xơ ở gan.
Tác dụng chống ung thư: Dùng tế bào u S – 130 cấy cho chuột nhắt trắng, thấy chất cucurbitacin B với liều 0,25 – 0,50 mg/kg ức chế được sự phát triển của tế bào S – 180 là 21 – 55%. Gây nhiễm u Ehrlich cho con vật, thấy cucurbitacin B với liều 0,25 – 0,50 mg/kg kéo dài được thời gian sống của con vật thêm 30 – 38%. Nghiên cứu in vitro, cucurbitacin B gây độc với tế bào ung thư mũi hầu KB và tế bào ung thư Hela. Liều gây chết 50% số tế bào ung thư là 0,005 mg/ml.
Tác dụng chống dị ứng: Khi nuôi cấy mô tế bào của cây bầu, trong quá trình phát triển, môi trường nuôi cấy có hình thành acid bryonolic là một triterpene pentacyclic có tác dụng chống dị ứng.
Độc tính của cucurbitacin B: Thử trên chuột nhắt trắng dùng đường uống, liều chiết trung bình là LD50 = 14,0 ± 3,0 mg/kg, nếu tiêm dưới da LD50 = 1,0 ± 0,07 mg/kg. Thử trên chuột cống trắng, dùng đường tiêm dưới da liên tục trong 6 ngày, tổng liều chết trung bình là LD50 = 2,2 ± 0,03 mg/kg.
Công dụng của bầu hồ lô
Quả bầu có vị ngọt nhạt, tính lạnh, có tác dụng giải nhiệt, giải độc, thông tiểu, tiêu thũng, trừ ngứa. Lá bầu có vị ngọt, tính bình. Tua cuốn và hoa bầu có tác dụng giải nhiệt độc.
Quả bầu được dùng luộc, nấu canh hay xào ăn. Bầu luộc ăn mát chữa được táo bón. Nước luộc quả bầu uống là thuốc thông tiểu tiện. Bầu là món ăn – vị thuốc tốt cho bệnh nhân đái tháo đường vì có ít glucose và năng lượng. Thịt quả bầu sống chữa đái rắt, sỏi thận, phù, giã đắp khi bị sưng tấy, nóng đỏ. Theo kinh nghiệm nhân dân, nếu bị sưng ống chân và đầy hơi mà ăn nhiều bầu thì lâu khỏi. Vỏ quả bầu già với liều 30 – 40g, phơi khô, sắc uống để hạ sốt, lợi tiểu, tiêu độc.
Rễ bầu cũng dược dùng trị phù và vàng da. Ngày 16 – 20g sắc uống. Tua cuốn và hoa bầu nấu nước tắm cho trẻ để phòng ngừa đậu, sởi, lở ngứa. Hạt bầu chữa răng lợi sưng đau, giun và sán xơ mít. Dầu hạt trị bệnh đau đầu. Ở Ấn Độ, người ta uống dích ép lá tươi để chữa rắn cắn
Chú ý: Quả bầu tính lạnh, ăn nhiều có thể gây nôn tháo, người hư hàn, tạng lạnh không nên dùng.
Bầu hồ lô trong phong thuỷ

Bầu hồ lô hay Bình hồ lô quả thật có hình dáng vô cùng kỳ lạ so với những loại trái (quả) khác. Từ xưa Hồ Lô đã được ông cha ta ứng dụng để đựng chứa các loại nước, rượu, linh đan diệu dược vô cùng thuận lợi. Với hình dạng miệng nhỏ, nhưng kèm phần bụng to nên quả Hồ Lô là tượng trưng cho sự chiêu nạp, bảo quản, sự hài hòa của âm dương và tiêu tán cái xấu. Ứng dụng trong Phong Thủy, Hồ Lô được xem như là một vật khí dùng để “hóa giải hung khí, tiêu trừ bệnh tật và gia tăng sức khỏe“. Theo phân tích ngữ âm, ngữ nghĩa theo Hán tự ở phần tên gọi “hồ lô” thì hình ảnh hồ lô mang biểu trưng của sự phúc lộc và thăng tiến.
Một số cách dùng theo từng ứng dụng của hồ lô:
– Tiêu tán khí độc, vận xui: Bào dịp tết Đoan Ngọ, mang hồ lô treo ngược trên đòn giông nhà, đợi đến giữa trưa thì gỡ xuống vứt đi, ngụ ý hồ lô hút hết độc khí, ám khí, hút hết xui xẻo.
– Cầu con cái xum xuê: Đưa cho con trai, con gái trong nhà mang dây chuyền mặt Hồ Lô để hi vọng nó sẽ có anh em trai tiếp theo, gia đình đông đủ.
– Cầu mau khỏi bệnh: Tiến hành treo 3 quả Hồ Lô đầu giường người bệnh giúp mang lại hiệu ứng tăng cường sức khỏe cho người bệnh mau lành.
– Cầu sức khỏe: Treo Hồ Lô ở phương Phúc Đức và Thiên Y để sức khỏe mọi người trong nhà luôn được dồi dào trường thọ.
– Cầu Bình An khi đi đường Vận tải: Treo những quả Hồ Lô phía trước xe ô tô hoặc chuyển qua dùng những móc khóa có hình Hồ Lô.
– Trẻ em khóc quấy: Nếu trong nhà có trẻ em nhỏ hay khóc quấy, có thể treo hồ lô trên đầu nôi. Hoặc nơi đầu giường để hút tà khí cho con cái ngủ yên giấc (giống như Nanh Heo hoặc Dao Nhọn).
Đặc biệt hình dạng hồ lô theo Ngũ hành thuộc về Kim. Và nếu được làm bằng kim loại như Đồng thì tính kim càng mạnh.
Kỹ thuật trồng cây bầu hồ lô
Cây bầu – Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – Tập I – Đỗ Huy Bích cùng các tác giả khác (đã sửa chính tả):
Bầu được trồng chủ yếu trong vườn quanh nhà để tự túc rau ăn. Người ta nhân giống bầu bằng hạt. Chọn quả to, đẹp, cân đối ở gần gốc (lứa quả thứ nhất hoặc thứ hai), làm quang treo giữ cho đến khi dây bầu héo, vỏ quả vàng, cát về tiếp tục phơi thật khô, treo vào gác bếp hoặc nơi khô ráo để lấy hạt làm giống.
Vào tháng 10 – 12, chỉ cần đào 1 – 2 hốc, mỗi hốc bón lót 10 – 15kg phân chuồng hoai trộn với 100g supe lân, sau đó lắp đất lại rồi gieo 4 – 5 hạt. Khi cây mọc, tỉa bớt, chỉ để mỗi hốc 2 cây. Có thể gieo hạt ở vườn ươm, khi cây có 4 – 6 lá thật, đánh cả bầu trồng vào hốc đã trộn sẵn phân. Bầu cần được tưới giữ ẩm thường xuyên, khoảng 70 – 80% độ ẩm đất là thích hợp. Rễ bầu ăn nông, cần xới đất tơi xốp, tạo điều kiện cho rễ phát triển. Khi dây bầu dài 1 – 1,5m, cần làm giàn cho cây leo. Giàn làm theo kiểu mái bằng, diện tích tùy thuộc số cây ở các hốc. Trước khi bắt dây lên giàn, nên khoanh dây bầu cho nằm một vòng, rồi lấp đất để cây mọc khỏe, lâu tàn. Chú ý phân bố dây bầu đều trên giàn. Cần dùng phân chuồng hoai, nước phân chuồng bón thúc vào lúc cây có 4 – 6 lá thật. Khi bắt đầu ra hoa và có quả rộ. Quả bầu có thể thu hái sau khi hoa tàn khoảng 15 – 20 ngày.
Địa chỉ bán cây giống bầu hồ lô uy tín, chất lượng ?
Địa chỉ: Ngách 68/45, ngõ 68, đường Nguyễn Văn Linh, phường Long Biên, thành phố Hà Nội.
- Quý khách xin vui lòng liên hệ với Cây cảnh Hải Đăng để được các chuyên viên của chúng tôi tư vấn lựa chọn sản phẩm cây giống bầu hồ lô phù hợp.
- Chúng tôi sẽ chụp ảnh sản phẩm cho quý khách nếu có yêu cầu.
- Chúng tôi sẽ kiểm tra kỹ hàng hóa đảm bảo chất lượng và đúng quy cách trước khi giao.
- Quý khách ở xa vui lòng tiến hành chuyển khoản trước hoặc đặt cọc trước. Nếu quý khách ở nội thành có thể áp dụng ship nhanh với chi phí 50k một lần ship.
Tài liệu tham khảo
- Cây bầu – Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – Tập I – Đỗ Huy Bích cùng các tác giả khác.