Độ hoàn thiện nội dung: 70%.
Ba gạc Phú Thọ hay ba gạc Phú Hộ, ba gạc thổ, ba gạc châu Phi, bầu giác, tên tiếng Anh là poison devil’s-pepper (danh pháp khoa học là Rauvolfia vomitoria Wennberg; đồng nghĩa: Rauvolfia stuhlmannii K.Schum.), là một loài thực vật có hoa thuộc họ La bố ma Apocynaceae.





Mô tả cây ba gạc Phú Thọ
Cây ba gạc Phú Thọ – Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – Tập I – Đỗ Huy Bích cùng các tác giả khác (đã sửa chính tả):
Cây nhỏ, cao 4 – 8m, thường gặp dưới dạng cây bụi cao 3 – 4m, phân nhánh nhiều. Thân cành màu nâu bạc, có nốt sần và vết sẹo của lá. Lá mọc vòng 3 – 5 cái, phần nhiều là 4, hình mũi mác đến bầu dục, đầu nhọn, có thể dài đến 20cm, rộng 7cm.
Cum hoa mọc ở kẽ lá và đầu cành thành xim hai ngả hình tán, hoa nhỏ, nhiều, màu trắng lục; đài hình chén nhẵn; cánh hoa xoăn, ống tràng phình ở hai đầu; nhị dính ở họng tràng; bầu 2 ô, vòi nhụy có lông ở đáy. Quả hạch, riêng lẻ hoặc đôi một rời nhau, hình trứng hoặc hơi tròn, khi chín màu đỏ da cam, hạt dẹt, cong, có khía. Toàn cày có nhựa mủ. Mùa hoa: tháng 7 – 8; mùa quả: tháng 9 – 11.
Thông tin thêm
1. Phân bố và sinh thái
Cây ba gạc Phú Thọ – Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – Tập I – Đỗ Huy Bích cùng các tác giả khác (đã sửa chính tả):
Ba gạc Phú Thọ có nguồn gốc hoang dại ở châu Phi. Loài này cùng với ba gạc hoa đỏ là nguồn cung cấp nguyên liệu ba gạc chủ yếu của thế giới, để chiết xuất hoạt chất làm thuốc chữa cao huyết áp. Ba gạc Phú Thọ được phát hiện đầu tiên ở Việt Nam năm 1959 lại vùng Phú Hộ thuộc huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ hiện nay. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa xác định được cụ thể về xuất xứ của cây này là vốn mọc tự nhiên hay do người Pháp đưa vào trồng tại Trại cây nhiệt đới Phú Hộ trước đây, sau trở nên hoang dại hóa.
Đó là một cây bụi lớn, ưa ẩm, ưa sáng. Cây còn nhỏ có thể hơi chịu bóng. Do khả năng tái sinh cây chồi tốt, nên phần lớn các cá thể còn sót lại ở vùng Phú Hồ hiện nay (tổng số 56 cây – điều tra năm 1997) là cây chồi, đã bị chặt đốn nhiều lần. Cây sinh trưởng phát triển tốt trong điều kiện khí hậu và đất đồi vùng trung du. Những cây trồng lưu giữ tại vườn thuốc ngoại thành Hà Nội (Viện Dược Liệu) đã được trên 30 năm, vẫn ra hoa quả đều hàng năm. Do số lượng cá thể hiện còn sót lại trong tự nhiên ít, nên ba gạc Phú Thọ cũng được đưa vào Sách Đỏ Việt Nam để bảo vệ.
2. Thành phần hoá học
Cây ba gạc Phú Thọ – Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – Tập I – Đỗ Huy Bích cùng các tác giả khác (đã sửa chính tả):
Chủ yếu là alkaloid tập trung ở rễ và lá. Ở rễ, hàm lượng alkaloid toàn phần là 1 – 1,5%, tập trung 90% ở vỏ rễ. Cây trồng ở Việt Nam có vỏ rễ chứa 3,28 – 5,66% alkaloid toàn phần. Rễ chứa reserpine (0,2%), ajmaline, reserpiline và một số alkaloid đặc biệt thuộc các nhóm yohimbine (quebrachine) và heteroyohimbine (raumitorine, rauvanine là đồng phân của reserpine, alstonine là đồng phân của serpentine). Vỏ rễ là nguyên liệu để chiết xuất reserpine, ajmaline, reserpiline.
Lá chứa 1% alkaloid là dẫn chất của heteroyohimbine và oxindole tương ứng. Ngoài ra, lá còn chứa các hợp chất flavonoid dưới dạng heteroside của kaempferol.
Từ loài cây ba gạc này, đã chiết xuất được 0,05% reserpine và ajmaline.
3. Tác dụng dược lý
Cây ba gạc Phú Thọ – Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – Tập I – Đỗ Huy Bích cùng các tác giả khác (đã sửa chính tả):
Dạng chiết từ ba gạc Phú Thọ trên chó gây mê thực nghiệm có tác dụng hạ huyết áp, đồng thời tăng cường hoạt động tiêu hóa (Raymond – Hamet). Cao chiết từ ba gạc Phú Thọ đã lấy hết reserpine vẫn còn tác dụng hạ huyết áp trên súc vật thí nghiệm cũng như trên bệnh nhân tăng huyết áp (J. La Barre).
Ở Việt Nam, cao chiết từ vỏ rễ và rễ nhỏ của ba gạc Phú Thọ đã được chứng minh có tác dụng hạ huyết áp rõ rệt, kéo dài trên mèo và chuột cống trắng.
Tác dụng hạ huyết áp xuất hiện cả trên súc vật có huyết áp bình thường và súc vật gây cao huyết áp thực nghiệm. Với liều dùng 20mg/kg cao ba gạc Phú Thọ có tác dụng hạ huyết áp tương đương với liều 7mg/kg của reserpine. Trên chuột nhắt trắng bằng đường uống LD50 của cao ba gạc Phú Thọ Là 977,2mg/kg (P.D Mai).
Công dụng và liều dùng ba gạc Phú Thọ
Ở Việt Nam, viên Rauvomin được điều chế từ cao ba gạc Phú Thọ đã được điều trị thử nghiệm chống tăng huyết áp trên lâm sàng, thuốc có tác dụng hạ huyết áp tốt, đặc biệt đối với những bệnh nhân tăng huyết áp vừa và nhẹ.
Ở Trung Phi và Tây Phi, ba gạc Phú Thọ được dùng làm nguyên liệu để chiết xuất alkaloid do có hàm lượng alkaloid cao (PROSEA 1999).
Liều dùng: Viên Rauvomin 2mg (alkalod toàn phần), mỗi lần uống 1 – 2 viên, ngày uống 2 lần.
Cách trồng ba gạc Phú Thọ
Cây ba gạc Phú Thọ – Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – Tập I – Đỗ Huy Bích cùng các tác giả khác (đã sửa chính tả):
Ba gạc Phú Thọ không kén đất, có khả năng chịu hạn, chịu bóng, ít sâu bệnh. Ba gạc Phú Thọ mới được phát hiện vào năm 1959. Năm 1979 – 1980, Trạm Dược liệu Vĩnh Phú và sau đó là Viện Dược liệu đã tiến hành nghiên cứu về kỹ thuật trồng trọt. Cây có thể trồng xen với nhiều loại cây, trên nhiều loại đất: từ đất đồi, đất bạc màu ở các tỉnh trung du đến đất thịt ở các tỉnh đồng bằng, tuy hàm lượng alkaloid và năng suất có khác nhau.
Ba gạc Phú Thọ chủ yếu được nhân giống bằng hạt. Hạt chín và thu vào tháng 9 – 10 cần xát bỏ vỏ ngoài, đem gieo ngay hoặc phơi khô, bảo quản để gieo vào tháng 2 – 3 năm sau. Kinh nghiệm nhiều nơi cho thấy, hạt tươi nảy mầm tốt hơn hạt khô. Hạt khô cần được xử lý bằng cách ngâm trong dung dịch acid sulfuric 0,5% trong 6 – 8 giờ rồi rửa sạch trước khi gieo.
Đất vườn ươm cần được cày bừa kĩ, lên thành luống cao 20 – 25cm, rộng 0,8 – 1m. Hạt có thể gieo vãi hoặc theo rạch, hạt nọ cách hạt kia 7 – 10cm. Gieo xong rắc một lớp đất nhỏ dày 1 – 2 cm rồi dùng rơm, rạ hoặc cỏ khô phủ lên, sau đó tưới giữ ẩm. Hạt sẽ nảy mầm sau 15 – 20 ngày. Khi cây được 5 – 6 đôi lá thật thì đánh đi trồng. Nếu gieo vào tháng 8 – 9 thì đánh trồng vào tháng 2 – 3 năm sau, nếu gieo vào tháng 2 – 3 thì đánh trồng vào tháng 8 – 9 cùng năm.
Ruộng sản xuất nếu là đồi, gò có thể lên luống theo đường đồng mức hoặc trồng thành vạt, nếu là đồng bằng thì lên luống cao 25 – 30cm, rộng 1 – 1,2m để trồng với khoảng cách 35 x 40cm hoặc 40 x 50cm. Nếu trồng một vài cây làm mẫu thì cần trồng thưa từ 2 – 3 mét một cây.
Sau khi làm đất, ruộng cần được bón phân lót. Trung bình thường dùng từ 10 đến 15 tấn phân chuồng, 150 đến 200kg supe lân, 75 đến 100kg kali cho 1 ha. Phân được trộn đều với đất trước khi lên luống. Hàng năm có thể dùng thêm 180 – 270kg urê, chia làm 2 – 3 lần để bón thúc cho cây vào các tháng 3, 6, 9. Ngoài ra, còn có thể tưới thêm nước giải, nước phân chuồng. Ba gạc Phú Thọ ít bị sâu bệnh, thỉnh thoảng có rệp sáp, rệp đen hại lá và ngọn cây.
Rễ ba gạc Phú Thọ được thu vào tháng 6 – 7 lúc cây đang ra nụ hoặc tháng 11 – 12 khi cây tàn lụi. Cây trồng sau 18 – 24 tháng là có thể thu hoạch. Rễ to cần bóc lấy vỏ khi còn tươi, rễ nhỏ để nguyên, phơi khô. Năng suất trung bình đại 300 – 400kg vỏ rễ khô/ha.
Vỏ rễ ba gạc Phú Thọ phơi trong râm hay sấy khô (Dược điển Việt Nam II, tập 3). Rễ có kích thước lớn hơn ba gạc hoa đỏ (4 – 5 đến 9cm) mặt ngoài vàng nâu, khía dọc.
Địa chỉ bán cây giống ba gạc Phú Thọ uy tín, chất lượng ?
Địa chỉ: Ngách 68/45, ngõ 68, đường Nguyễn Văn Linh, phường Long Biên, thành phố Hà Nội.
- Quý khách xin vui lòng liên hệ với Cây cảnh Hải Đăng để được các chuyên viên của chúng tôi tư vấn lựa chọn sản phẩm cây giống ba gạc hoa đỏ phù hợp.
- Chúng tôi sẽ chụp ảnh sản phẩm cho quý khách nếu có yêu cầu.
- Chúng tôi sẽ kiểm tra kỹ hàng hóa đảm bảo chất lượng và đúng quy cách trước khi giao.
- Quý khách ở xa vui lòng tiến hành chuyển khoản trước hoặc đặt cọc trước. Nếu quý khách ở nội thành có thể áp dụng ship nhanh với chi phí 50k một lần ship.