Top 12 loài cây và nấm xứng đáng là truyền nhân của quỷ dữ.
1. Octopus Stinkhorn ( Clathrus archeri )
Với những “xúc tu” lớn màu đỏ rỉ ra chất nhờn màu đen dính, cấu trúc sinh sản của Octopus Stinkhorn ( Nấm lõ chó bạch tuộc ) mang một nét tương đồng nổi bật với Demogorgon trong Stranger Things ( loạt phim truyền hình chiếu mạng khoa học viễn tưởng kinh dị Mỹ được sáng tạo bởi Anh em nhà Duffer và phát hành trên Netflix ).
Quái vật nấm này nở ra từ một quả trứng phát triển giữa lớp lá mục và mùn cưa. Nó có nguồn gốc từ Úc và New Zealand nhưng đã được du nhập vào Anh và hiện được tìm thấy rất nhiều ở miền nam nước Anh.
Bên cạnh vẻ ngoài đáng sợ, Octopus Stinkhorn còn có mùi thịt thối rữa. Điều này là để thu hút ruồi giúp phân tán bào tử và tạo ra nhiều nấm mới hơn.
Xem chi tiết loài nấm này tại đây
2. Top 12 – Zombie Fungus ( Ophiocordyceps )
Ophiocordyceps là một chi nấm trong họ Ophiocordycipitaceae. Được biết đây là chi phổ biến, được nhà nghiên cứu nấm người Anh Tom Petch mô tả khoa học lần đầu tiên vào năm 1931, hiện chứa khoảng 140 loài kí sinh trên côn trùng. Các chi có giai đoạn sinh sản vô tính ( Anamorph ) tương ứng với các loài trong chi Ophiocordyceps là Hirsutella, Hymenostilbe, Paraisaria, Isaria và Syngliocladium.
Loài điển hình trong chi này là Ophiocordyceps unilateralis, còn được biết đến với tên gọi nấm sát thủ hay nấm điều khiển não kiến, một loài nấm sống ký sinh trên những xác kiến trong rừng rậm nhiệt đới ở Brazil. Loài nấm ký sinh này có khả năng xuyên vào não bộ của kiến, sau đó giết chết con vật và rồi chui vào trong cơ thể con kiến để phát triển và phát tán các bào của nấm từ đó biến vật chủ thành những xác chết biết đi trước khi thực sự giết chúng.
Khi xâm nhập vào cơ thể vật chủ, nấm sử dụng hóa chất đặc biệt để kiểm soát hành vi của kiến. Nấm sẽ “ra lệnh” cho kiến buộc nó phải rời đàn và cắn thủng phần mặt dưới của một chiếc lá. Đến khi bị nấm kết thúc cuộc đời, xác kiến vẫn cắm chặt vào phần thân lá. Cuối cùng, nấm sát thủ sẽ sản sinh một cái cuống dài, đâm xuyên đầu kiến và nhô ra ngoài rất dễ thấy, bắt đầu phun bào tử để săn những con mồi không may khác, ngoài ra nó còn mọc thêm những cuống nhỏ hơn ở các phần cơ thể kiến, trong đó có bàn chân và khớp chân dưới của kiến ( tương tự như khớp gối ở người ).
Tuy nhiên một số loài kiến như loài kiến Camponotus rufipes ở rừng mưa nhiệt đới Brazil và kiến thợ mộc ở Thái Lan thì chúng cố gắng bảo vệ các thành viên trong bầy bằng cách chải chuốt cho nhau khiến nấm sát thủ không thể sinh sôi thêm bào tử để hại thêm nhiều thành viên khác. Cho nên mặc dù rất nguy hiểm nhưng nấm sát thủ vẫn bị giới hạn khả năng lây lan và cộng đồng kiến này được bảo toàn.
3. Devil’s Tooth ( Hydnellum peckii )
Trong những khu rừng sâu, tối và rậm rạp ở Bắc Mỹ và Châu Âu, bạn có thể tình cờ bắt gặp những chiếc răng lớn đang chảy máu trong các bụi cây thấp, đó chính là những cấu trúc sinh sản của nấm Răng Quỷ ( Devil’s Tooth ).
Mặc dù có vẻ ngoài không mấy gây thiện cảm, nhưng loại nấm này lại khá “hiền”, cụ thể là thay vì giết chết vật chủ, nấm lại sống trong mối quan hệ đôi bên cùng có lợi ( mutualism – hỗ sinh ) với nhiều cây thuộc ngành thông. Nấm Răng Quỷ giúp cây lấy chất dinh dưỡng từ đất, đổi lại, cây cung cấp cho nấm nguồn carbohydrat từ quá trình quang hợp.
Xem chi tiết loài nấm này tại đây
4. Top 12 – Doll’s Eyes ( Actaea pachypoda )
Bạn đã bao giờ cảm thấy như có thứ gì đó đang theo dõi bạn khi đang đi lang thang trong một khu rừng chưa ?.
Rất có thể đó là Doll’s Eyes ( Mắt búp bê ) có nguồn gốc từ đông Bắc Mỹ. Quả mọng, trắng với đường kính khoảng 1cm, cùng một điểm mắt màu đen khiến người ta không khỏi liên tưởng đến mắt búp bê đang nhìn ra 4 phương 8 hướng. Cộng thêm cuống quả bắt đầu dày lên và trở thành màu đỏ tươi khi quả chín khiến người ta không khỏi rùng mình trước sự hiện hữu của loài cây kì lạ này. Và đặc biệt là cây rất độc nên ít ai dám bén mảng gần loài cây này.
Xem chi tiết loài cây này tại đây
5. Dead Man’s Fingers ( Xylaria polymorpha )
Đây đúng kiểu “dọa ma” người đi dạo bằng vô số “ngón tay” thò lên từ dưới đất !!.
Xylaria polymorpha (Pers.) Grev., thường được gọi với cái tên là Dead Man’s Fingers ( ngón tay người chết ), một loại nấm hoại sinh ( saprobic fungus ), và là một “dân cư” phổ biến trong các khu rừng và rừng thưa ( woodland ). Loại nấm này thường thấy mọc ra từ gốc của các gốc cây ( còn lại sau khi đốn ) đang mục nát. Nấm được đặc trưng bởi chất nền ( stroma ) hình chùy thon dài, thẳng đứng, chồi hẳn lên trên mặt đất giống như những ngón tay đầy ma mị. Chi Xylaria chứa khoảng 100 loài nấm phân bố trên toàn thế giới. Với tính ngữ chỉ loài polymorpha mang nghĩa là “many forms” ( nhiều dạng ) ám chỉ sự biến đổi đa dạng của thể quả ( chất nền ). Thường thì loại nấm này được tìm thấy với vô số “ngón tay” riêng biệt nhưng đôi khi chúng sẽ hợp nhất với nhau.
6. Top 12 – Strangler Fig ( đa bóp cổ )
Strangler fig là tên gọi chung của một số loài cây nhiệt đới và cận nhiệt đới, với một số điển hình như:
- Ficus aurea, hay còn được gọi là Florida strangler fig ( đa bóp cổ Florida )
- Ficus benghalensis
- Ficus burtt-davyi
- Ficus citrifolia
- Ficus craterostoma
- Ficus tinctoria
- Ficus macrophylla
- Ficus obliqua
- Ficus virens
- Ficus watkinsiana
Tất cả những loài được liệt kê phía trên đều có chung một thói quen sinh trưởng đó chính là “bóp nghẹt” cây chủ và đặc biệt nhất là chi Ficus. Thói quen sinh trưởng “máu lạnh” này được coi là sự thích nghi triệt để trong các khu rừng u tối ( dark forest ), nơi vốn dĩ diễn ra sự cạnh tranh ánh sáng gay gắt. Chúng được gọi là thực vật phụ sinh không hoàn toàn ( hemiepiphyte ), dành phần đầu tiên của đời mình mà không cắm rễ xuống đất. Hạt của các loài trên, thường là do loài chim phát tán, bắt đầu nảy mầm trong các kẽ hở trên đỉnh các cây khác. Những cây con này mọc rễ xuống dưới và bao bọc thân cây chủ đồng thời cũng phát triển hướng lên để tiếp cận vùng ánh sáng mặt trời phía trên tán cây. Rễ của chúng bó chặt vào thân và gốc của cây chủ, vô tình cắt đứt nguồn cung cấp dinh dưỡng và nước khiến cây chủ yếu và chết đi – nơi vốn đã “cưu mang” chúng từ khi còn nhỏ.
7. Mycena manipularis
Mycena sportsularis (Berk.) Sacc. là một loài nấm tán ( agaric fungus ) thuộc họ Mycenaceae. Được tìm thấy ở Australasia, Malaysia và các đảo Thái Bình Dương, sợi nấm ( mycelium ) và thể quả ( fruit body ) của nấm có khả năng phát quang sinh học vào ban đêm.
8. Top 12 – Purple Jellydisc ( Ascocoryne sarcoides )
Với hình dáng không thể yêu thương nổi, trông như những đám ruột nhầy nhụa trên thân và cành cây chết, Ascocoryne sarcoides rất xứng đáng khi có mặt trong danh sách này
Được biết Ascocoryne sarcoides là một loài nấm thuộc họ Helotiaceae phân bố rộng khắp ở Bắc Mỹ, Châu Âu và Châu Á. Tính ngữ chỉ loài sarcoides có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp sarkodes ( fleshy tức thịt ). Tên khoa học trước đây của loài là Coryne sarcoides, trong quá khứ việc phân loại của loài vô cùng phức tạp bởi thực tế là nó có thể chấp nhận cả hai kiểu sinh sản là hữu tính và vô tính. Tên thường được của loài được sử dụng phổ biến là jelly drops hoặc purple jellydisc ( đĩa thạch màu tím ), xuất phát từ hình dạng là một khối sền sệt gồm các đĩa màu hồng nhạt hoặc tím. Trong tự nhiên thì A. sarcoides là một loại nấm hoại sinh ( saprobic fungus ) và mọc thành từng cụm trên xác thân và cành của nhiều loại cây gỗ. Các nghiên cứu thực địa cho thấy sự chiếm dụng của A. sarcoides trong gỗ lõi ( heartwood ) của loài Picea mariana ( black spruce ) vô tình hình thành một số khả năng chống lại sự xâm nhiễm thêm của nấm phân hủy gỗ ( wood-decay fungus ). Ngoài ra A. sarcoides còn chứa hợp chất kháng sinh ascocorynin, được đặt trong phòng thí nghiệm để ức chế sự phát triển của một số vi khuẩn Gram dương.
9. Black Bat Flower ( Tacca chantrieri )
Tacca chantrieri André là một loài thực vật có hoa trong họ Củ nâu Dioscoreaceae. Tên thường gọi của loài là Black bat flower ( hoa dơi đen ). Trong Tiếng Việt thì được gọi bằng nhiều cái tên như Hoa quỹ dữ, Râu hùm hay Mèo đen. Được biết Tacca chantrierei có nguồn gốc từ các vùng nhiệt đới của Đông Nam Á bao gồm Thái Lan, Malaysia và miền nam Trung Quốc đặc biệt là tỉnh Vân Nam.
Tacca chantrieri có hoa màu đen và hình dáng hoa khiến người ta liên tưởng đến hình con dơi, có chiều ngang lên đến 30,48 cm và có những ‘râu’ dài lên đến 71,12 cm. Có mười loài trong chi Tacca. Một trong số này, mà điển hình là T. integrifolia, thường được gọi là “white bat plant” ( cây dơi trắng ). T. Integrarifolia tương tự như T. chantrieri, nhưng có lá bắc màu trắng với vân tím.
Xem chi tiết loài cây này tại đây
10. Top 12 – Snapdragon seed pod ( Antirrhinum majus )
Snapdragon ( Cây hoa mõm chó ), hay dragon flower ( hoa rồng ), là một loại cây cảnh trong vườn phổ biến. Tên gọi dragon flower bắt nguồn từ sự tương đồng của hoa với đầu rồng.
Sẽ không có gì đáng để nói nhưng nếu bạn để ý thì một khi hoa tàn, nó sẽ để lại một vỏ hạt ( seed pod ) giống một chiếc đầu lâu không mấy thân thiện.
11. Jelly Ear ( Auricularia auricula-judae )
Auricularia auricula-judae (Bull.) J.Schröt., còn được gọi là wood ear ( mộc nhĩ ), jelly ear, hoặc bằng một số tên phổ biến khác, là một loài nấm ăn được thuộc bộ Auriculariales được tìm thấy phổ biến trên toàn thế giới. Thể quả đặc trưng bởi hình dáng giống cái tai và có màu nâu; nấm phát triển trên gỗ, nhất là các loài thuộc chi Cơm cháy Sambucus. Tính ngữ chỉ loài auricula-judae có nguồn gốc từ niềm tin rằng Giu-đa Ích-ca-ri-ốt ( một trong 12 sứ đồ nhận sự dạy dỗ của Đức chúa Jêsus và là kẻ phản ngài với 30 đồng bạc ) đã treo cổ tự tử trên cây Cơm cháy. Tên gọi cũ “Judas’s ear” ( tai của Giu-đa ) đã bị lu mờ phần lớn bởi tên gọi “Jew’s ear” ( tai của người Do thái ), đến ngày nay thì jelly ear và các tên khác bắt đầu được ưa chuộng hơn. Nấm có thể được tìm thấy phát triển quanh năm ở các vùng ôn đới trên toàn thế giới.
Ở phương Tây, A. auricula-judae đã được sử dụng nhiều trong y học dân gian vào thế kỷ 19 để chữa các bệnh như viêm họng, đau mắt và vàng da, hay ứng dụng như một chất làm se. Mặc dù nó không được tiêu thụ rộng rãi ở phương Tây, nhưng A. auricula-judae từ lâu đã trở nên phổ biến và vô cùng nổi tiếng ở Trung Quốc, đến mức Úc đã xuất khẩu khối lượng lớn sang thị trường tiềm năng này vào đầu thế kỷ XX. Ngày nay, nấm là một thành phần phổ biến trong nhiều món ăn Trung Quốc, chẳng hạn như Súp chua cay ( Hot and sour soup ), và cũng thấy được sử dụng trong y học dân gian Trung Quốc.
12. Top 12 – Ghost Plant ( Monotropa uniflora )
Monotropa uniflora L., hay còn được gọi với các tên như ghost plant ( cây ma ), ghost pipe, Indian pipe hoặc corpse plant, là một loài thực vật có hoa thuộc họ Thạch nam Ericaceae có nguồn gốc từ các vùng ôn đới của châu Á, Bắc Mỹ và bắc Nam Mỹ. Loài này được L. mô tả khoa học đầu tiên năm 1753. M. uniflora đôi khi có màu trắng hoàn toàn như sáp, nhưng thường thì có nhiều đốm đen và hồng nhạt. Các biến thể hiếm có thể có màu đỏ đậm. Vì hình dáng lạ, nhiều người còn nhầm tưởng đây là nấm chứ không phải cây. Gọi là “cây mà” vì nó không phụ thuộc vào ánh sáng mặt trời để phát triển mà thay vào đó là sống kí sinh trên nấm ( Myco-heterotrophy ) nên có thể dễ dàng tồn tại trong môi trường rất tối như rừng rậm, cùng thời gian xuất hiện tương đối ngắn.
Trên đây là top 12 loài cây và nấm không dành cho người yếu tim mà shop tổng hợp được cho bạn đọc. Bài viết về top 12 này vẫn còn khá sơ sài nên một số thông tin có thể không chính xác. Rất mong bạn đọc góp ý và sửa lỗi để shop có thể cải thiện bài viết hơn nữa trong tương lai.