Độ hoàn thiện nội dung: 70%.
Đu đủ, tên tiếng Anh là papaya (danh pháp khoa học là Carica papaya L.), là một loài thực vật có hoa thuộc họ Đu đủ Caricaceae.


Mô tả cây đu đủ
Cây đu đủ – Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – Tập I – Đỗ Huy Bích cùng các tác giả khác (đã sửa chính tả):
Cây nhỏ hoặc cây nhỡ, cao 2 – 4m. Thân thẳng, không phân nhánh, mang nhiều vết sẹo do cuống lá rụng để lại. Lá to, mọc so le, tập trung ở ngọn, cuống rất dài, xẻ 5 – 7 thuỳ sâu, gốc hình tim, đầu nhọn, mỗi thuỳ lại chia tiếp thành những thuỳ nhỏ không đều, gân lá hình chân vịt, hai mặt nhẵn.
Hoa màu vàng lục nhạt, mọc ở kẽ lá; hoa đực và hoa cái cùng gốc hoặc khác gốc; cụm họa đực dài, phân nhánh thành chuỳ xim, đài hợp có 5 răng ngắn, tràng 5 cánh hàn liền hình phễu, nhị xếp thành 2 vòng trên ống tràng, nhụy tiêu giảm; cụm hoa cái có 2 – 3 hoa, đài và tràng gồm những bộ phận hơi dính nhau ở gốc, không có nhị lép, bầu 1 ô, nhiều lá noãn. Quả mọng to, hình trứng ngược hoac thuôn dài, khi chín màu vàng đỏ, hạt nhiều màu đen. Mùa hoa quả: tháng 5 – 10.
Thông tin thêm
1. Phân bố, thu hái và chế biến
Cây đu đủ – Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – Tập I – Đỗ Huy Bích cùng các tác giả khác (đã sửa chính tả):
Chi Carica L. có nguồn gốc ở vùng nhiệt đới châu Mỹ, Ở vùng núi cao (1500 – 3000m), từ Panama đến Bolivia, có loài đu đủ mọc tự nhiên Vasconcellea pubescens A.DC. (đồng nghĩa: Carica pubescens Lenné & K.Koch) cho quả ăn được. Cây đu đủ trồng hiện nay rất có thể là một giống lai tự nhiên của loài Carica peltata Hook. & Arn.. Vào khoảng thế kỷ 16, người Tây Ban Nha đã đưa đu đủ vào trồng ở vùng Caribe và một số nước Đông Nam Á. Từ các địa điểm này, cây tiếp tục được trồng rộng rãi ở Ấn Độ, Sri Lanka, châu Đại Dương và châu Phi (V. N. Villegas, 1991: Carica papaya L., in PROSEA – 2. Edible fruits and nuts. 108 – 112).
Ở Việt Nam, đu đủ cũng là cây trồng khá lâu đời trong nhân dân và chưa xác định được cụ thể thời gian cây được nhập khi nào. Đu đủ trồng gồm nhiều giống, gần như ở mỗi vùng sinh thái đều có một giống đu đủ khác nhau. Nhưng vài năm gần đây, một vài giống cho quả sớm, năng suất và chất lượng cao được nhập trồng, có xu hướng lấn át các giống có tính bản địa cũ.
Đu đủ là loại cây trồng nhiệt đới, ưa khí hậu nóng và ẩm. Nhiệt độ thích hợp cho cây sinh trưởng là 21 – 33oC; lượng mưa hàng năm trên 1200mm. Cây sống được trên nhiều loại đất, song yêu cầu phải thoát nước nhanh. Đu đủ không chịu được ngập úng quá 20 giờ. Ở Việt Nam, cây không trồng được ở vùng núi cao lạnh (trên 1500m). Đu đủ là cây sinh trưởng nhanh. Cây trồng từ hạt sau 4 – 5 tháng có thể ra hoa. Hoa thụ phấn nhờ gió hoặc côn trùng, do đó, chúng dễ bị lai tạp ở các thế hệ sau.
Hiêu nay, đu đủ đã trở thành cây ăn quả quan trọng ở Việt Nam cũng như nhiều nước nhiệt đới khác. Tổng sản lượng đu đủ của thế giới năm 1988 lên tới 3,68 triệu tấn. Các nước trồng nhiều đu đủ nhất là Brazil, Ấn Độ, Mexico, Indonesia … ở châu Phi người ta còn trồng đu đủ để lấy nhựa mủ (như Tanzania: 132 tấn). Quả sau khi lấy nhựa, lúc chín vẫn ăn được.


2. Thành phần hoá học
Cây đu đủ – Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – Tập I – Đỗ Huy Bích cùng các tác giả khác (đã sửa chính tả):
Quả đu đủ xanh có papain, saccharose, nhiều nhựa, acid hữu cơ (acid tataric, acid malic), các vitamin B1, B2, C, carotenoid (β-carotene, γ-carotene); 5,6-monoepoxycryptoxanthin, mucatochrom, violaxanthin, antheraxanthin, neoxanthin, cryptoxanthin.
Papain là chất bột màu trắng hoặc trắng – xám nhạt, dễ chảy nước nhẹ, không hoàn toàn tan trong nước, glycerin, không tan trong đa số các dung môi hữu cơ. Đó là protease mang nhóm -SH, mang 212 gốc acid amin, không có nửa phần là carbohydrate. Trọng lượng phần tử: 21000 – 27000.
Papain có ở lá, thân và quả, loại thương phẩm thu được từ quả xanh. Papain tinh khiết chỉ dược dùng trong mục đích nghiên cứu. Papain thương phẩm hoạt động ở pH 3 – 11, thường ổn định ở pH trung tính, chịu được nhiệt độ 70o trong 30 phút. Nó chứa chymopapain, lysozyme và một lượng nhỏ papaya peptidase A, lipase.
Papain được hoạt hóa bởi các tác nhân khử (thioglycolate, glutathione, cysteine, sulfide, bisulfide, thiosulfate và cyanide) và bị ức chế bởi các tác nhân oxy hoá (iodoacetate, iodoacetamide, methylbromide, N-ethylmaleimide), các ion kim loại nặng (Zn, Fe, Cu, Pb và Hg) và các muối thủy ngân hữu cơ. Nếu bị ức chế hoạt động do kim loại nặng, papain có thể được phục hồi do EDTA và các nhân tố khử (cysteine).
Nhựa từ quả và hạt có carpaine. Hạt có glucotropaeolin. Khi thủy phân, chất này cho benzyl isothiocyanate và carpasamin.
Lá chứa các alkaloid carpaine, pseudocarpaine và một lượng lớn choline. Ngoài ra, còn có saponin, carposid và một số alkaloid khác (nicotine, coniine, myosmine) ở mức độ vi lượng.


3. Tác dụng dược lý
Cây đu đủ – Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – Tập I – Đỗ Huy Bích cùng các tác giả khác (đã sửa chính tả):
Đã thử nghiệm bài thuốc sắc gồm rễ đu đủ và 5 dược liệu khác trên chuột nhắt trắng và gà gây nhiễm Plasmodium berghei và P. gallinaceum, và thấy thuốc có tác dụng kìm hãm ký sinh trùng nhưng gây tiêu chảy nên vật chủ chết trước thời hạn. Cao lá đu đủ có tác dụng kháng khuẩn đối với Typhimurium mentagrophytes, T. rubrum và Staphylococcus aureus. Cao chiết từ vỏ quả và hạt có tác dụng kháng khuẩn đối với Staphylococcus aureus, Bacillus cereus, Escherichia coli, Pseudomonas aeruginosa và Shigella flexneri. Benzyl isothiocyanate là aglycon của glucotropaeolin phân lập từ đu đủ, ức chế sự sinh sôi của nhiều vi khuẩn gram âm và gram dương như E. coli, Penicillium notatum và Shigella. Lá và rễ có tác dụng kháng khuẩn yếu. Cao chiết từ đu đủ có tác dụng hơi kéo dài thời gian sống sốt của phôi gà gây nhiễm virus, và ức chế sự phát triển của u vú chuột nhắt nuôi cấy.
Đã chứng minh hạt đu đủ có tác dụng diệt giun như piperazin và có thể là thuốc thích hợp để trị giun đũa và giun kim; có tác dụng đối với Toxocara transfuga, Ascaridia lumbricoides var. suis và Pheretima, giun kim, Aspienlaris tetraptera và A. galli. Hoạt tính diệt giun của hạt đu đủ chủ yếu do benzyl isothiocyanate. Hợp chất không gây tác dụng độc (trừ tác dụng kích ứng tại chỗ). Đã chứng minh cơ chế tác dụng diệt giun của benzyl isothiocyanate là do ức chế chuyển hóa năng lượng và tác động đến hoạt tính chuyển động của ký sinh trùng in vitro. Khi cho papain tác động tại chỗ tại vết rắn cắn, papain có tác dụng huy nọc rắn nhanh chóng.
Cao cồn của hạt đu đủ, cho thỏ uống với liều 100mg/kg, đã có tác dụng ức chế sự rụng trứng gây bằng tiêm tĩnh mạch mỗi liều đồng axetat 4mg/kg ở 20% thỏ thí nghiệm. Cao thô hạt đu đủ cho mỗi chuột cống trắng uống hàng ngày 5mg, đã có tác dụng ức chế khả năng sinh sản ở 100% chuột đực thử nghiệm sau 40 – 60 ngày điều trị. Thuốc làm mất khả năng di động của tinh trùng ở đuôi mào tinh, gây những thay đổi về hình thái và làm giảm số lượng tinh trùng. Không thấy có thay đổi về thông số lâm sàng. Tác dụng chống sinh sản của cao hạt đu đủ có tính chất chủ yếu sau tinh hoàn, không ảnh hưởng về mặt độc chất học và về tình dục. Những tác dụng có tính thuận nghịch hoàn toàn.
Một chất xúc tác sinh học là chế phẩm thiên nhiên của Nhật Bản được sản xuất bằng cách lên men đu đủ cùng với 2 dược liệu khác và glucose. Chất xúc tác sinh học này đã có tác dụng chống oxy – hóa, thu nhặt 95% gốc hydroxyl, gốc 1,1-diphenyl-2-picrylhydrazyl. Cho chuột cống trắng uống 1g/kg thể trong chất xúc tác sinh học này đã làm giảm có ý nghĩa nồng độ những chất phản ứng với acid thiobarbituric, một chỉ số của sự peroxy – hóa lipid ở những ổ động kinh gây bởi sắt ở chuột. Chất xúc tác sinh học này có thể là một thực phẩm thuốc có ích chống peroxy – hóa lipid ở tế bào thần kinh, trong động kinh sau chấn thương và lão hóa.
Cao chiết với cồn từ lá đu đủ được nghiên cứu trong một số mô hình ung thư thực nghiệm và được chứng minh có các tác dụng ức chế sự phát triển u báng gây hời tế bào ung thư Sarcoma TG. 180 ở chuột nhắt trắng làm giảm thể tích u báng, giảm mật độ tế bào ung thư, giảm sự sinh khối u.


Công dụng và liều dùng đu đủ
Quả đu đủ có vị ngọt, mùi hơi hắc, tính mát, có tác dụng làm mát gan, nhuận tràng, tiêu đờm, giải độc, tiêu thũng. Quả đu đủ chín được coi là bổ, có tác dụng giúp tiêu hóa, nhuận tràng. Trẻ em ăn đu đủ chín trong 7 – 10 ngày hoặc lâu hơn, sau khi ăn cơm chiều, thấy giun kim ra nhiều. Quả đu đủ xanh còn non, bổ đôi, hơ lửa cho nóng, rồi áp vào chỗ sưng tấy, day đi day lại nhiều lần, khi nào nguội lại hơ nóng. Quả đu đủ xanh già nấu thật nhuyễn, ngày ăn 2 lần trước mỗi bữa ăn, hoặc nạo thành sợi nhỏ, sấy khô, tán bột, ngày uống 2 lần, mỗi lần 1 – 2 thìa cà phê, để chữa đầy bụng khó tiêu. Còn ăn quả non hầm với chân giò lợn để lợi sữa. Lá đu đủ tươi giã nát, gói vào miếng gạc, đắp vào 2 bên thái dương chữa đau đầu. Nước sắc đặc lá đu đủ khô, có tác dụng sát khuẩn, dùng rửa vết thương, lở loét, và tẩy được vết máu trên vải, quần áo. Lá đu đủ tươi gói loại thịt cứng và dai trong vài giờ thì khi nấu chín, thịt sẽ chóng mềm và nhừ. Nhân dân còn dùng lá đu đủ chữa ung thư. Mỗi lần hái 3 – 7 lá bánh tẻ tươi, tước nhỏ, cả cuống lá (không dùng dao thái), rồi sắc với nước, còn lại 1/3 lượng nước, chia 3 lần uống trong ngày. Dùng liên tục thời gian dài. Nhựa mủ từ lá và quả đu đủ dùng bôi chữa chai chân, hột cơm, nốt tàn nhang, hắc lào mới phát, eczema, vẩy nến. Còn dùng lá đu đủ đắp trị mụn nhọt, tiêu sưng tấy.
Hoa đu đủ đực tươi 10 – 20g, trộn với đường, đường phèn hoặc mật ong, hấp cơm rồi nghiền nát, uống làm 2 – 3 lần trong ngày, để trị ho trẻ em. Rễ đu đủ chữa băng huyết, sỏi thận (sắc uống), chữa rắn cắn (giã nát vắt lấy nước uống, bã đắp vết cắn); ngày dùng 8 – 12 g.
Kiêng kỵ: Phụ nữ có thai, người viêm loét dạ dày, kiêng dùng nhựa và quả đu đủ xanh.
Trong y học dân gian Ấn Độ, quả đu đủ chín làm dễ tiêu, lợi tiểu, trị đầy hơi. Siro và rượu vang chế từ quả đu đủ có tác dụng long đờm, an thần và bổ. Nhựa mủ từ quả xanh có tác dụng trị giun sán, đăc biêt có hiệu quả trục giun đũa; đôi khi được dùng làm thuốc mỹ phẩm để chữa nốt tàn nhang và những vết khác ở da. Quả xanh có tác dụng nhuận tràng và lợi tiểu nhẹ và có tính chất thúc đẻ. Hạt có tác dụng làm đỡ khát và diệt giun. Lá được dùng đắp trị đau thần kinh. Rễ trị ghẻ cóc, trĩ và làm thuốc bổ toàn thân. Nhiều tác dung điều trị được quy cho papain, tập trung phần lớn ở nhựa mủ của quả. Còn dùng dịch ép vỏ rễ, uống 2 thìa cà phê một lần một ngày trong 5 ngày liền để lợi sữa. Phụ nữ mang thai kiêng ăn đu đủ vì dễ bị sảy thai hoặc đẻ non.
Y học cổ truyền Indonesia dùng dịch ép lá đu đủ uống chữa sốt rét và những bệnh sốt khác; có thể phối hợp với lá đại bi. Lá đu đủ cũng có trong bài thuốc sắc uống chữa lao. Nhựa mủ và rễ được dùng trị giun, đặc biệt giun kim. Rễ giã nát, trộn với hạt tiêu, đắp lên trán trị cảm sốt và cúm. Rễ đu đủ còn chữa viêm màng bụng.
Ở Nepal, nhựa mủ đu đủ bôi trị bọ cạp cắn. Ở Nigeria, nước sắc lá đu đủ trị sốt rét cho người và làm thuốc tẩy cho ngựa. Nước sắc rễ trị ghẻ cóc, trĩ, nước hãm rễ lại trị giang mai. Quả non cắt làm đôi, đắp trên lách to để làm nhỏ lại. Nhựa mủ của quả có tác dụng rút mủ ở các nhọt. Hạt đu đủ là thuốc trị đầy hơi và chống kích thích. Ở Peru, quả đu đủ băm nhỏ dùng ngoài chữa vết thương, chống nhiễm khuẩn tại chỗ, làm lột da. Uống nước ngâm quả để trị giun và chữa viêm ruột trẻ em. Nước hãm lá uống gây hạ huyết áp, làm dễ tiêu. Ở Haiti, nhân dân uống dịch ép quả để trị tăng huyết áp, uống nước ngâm rễ trị viêm niệu đạo, đắp lá nấu chín trị thấp khớp, chấn thương, bong gân. Bôi nhựa mủ vào răng hoặc súc miệng bằng nước sắc lá trị đau răng.
Bài thuốc có đu đủ:
Chữa sai khớp, bong gân: Đu đủ xanh, lá na, mỗi vị 10g; muối ăn, vôi tôi, mỗi vị 5g. Giã nhỏ cho vào gạc đắp lên chỗ sưng đau và băng lại, sau khi đã nắn chỉnh hình khớp.
Chữa rắn độc cắn:
- Lá đu đủ, rễ chỉ thiên, lá hoặc quả ớt, mỗi vị 50g. Rửa sạch, giã nát, thêm nước, gạn uống, bã đắp vào vết rắn cắn.
- Rễ đu đủ đực 20g, lá xuyên tiêu 10g, hồng bì 5 hạt. Tất cả giã nhỏ, thêm nước, gạn uống, bã đắp.
Chữa ho, viêm họng: Hoa đu đủ đực 15g; xạ can, củ mạch môn, lá húng chanh, mỗi vị 10g. Cho dược liệu vào một bát nhỏ, thêm ít muối, hấp cơm rồi nghiền nát, ngày ngâm 2 – 3 lần, nuốt nước dần dần.
Chữa ho gà: Hoa đu đủ đực, vỏ quýt lâu năm, vỏ rễ dâu, mỗi vị 20g; bách bộ, phèn phi, mỗi vị 12g. Hoa đu đủ sao vàng, rễ dâu tẩm mật sao. Tất cả tán nhỏ, ray bội mịn. Ngày uống 3 lần. Trẻ em 1 – 5 tuổi, mỗi lần 1 – 4g; 5 – 10 tuổi, 5 – 8g.
Chữa áp xe, sưng tấy, ứ máu: Quả đu đủ non to bằng quả trứng, rừa sạch bằng nước muối, giã nhỏ với một củ tỏi, đắp lên chỗ áp xe và băng lại. Ngày làm 2 lần.
Chữa lở mặt, lờ đẩu: Nhựa quả đu đủ xanh 1g trộn với bột hàn the và nước, bôi hàng ngày chữa lở mặt, lở đầu.
Thuốc lợi sữa: Đu đủ xanh, lá sung, mỗi vị 50g. chân giò lợn 1 cái, gạo nếp 100g. Chân giò lợn cạo lông, rửa sạch, chặt thành miếng nhỏ. Đu đủ gọt vỏ, bỏ hạt, thái nhỏ. Lá sung rửa sạch, băm nát. Tất cả hầm nhừ với gạo nếp, dùng ăn trong một ngày, chia 2 lần. Dùng vài ngày.
Cách trồng cây đu đủ
Cây đu đủ – Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – Tập I – Đỗ Huy Bích cùng các tác giả khác (đã sửa chính tả):
Đu đủ được trồng ở khắp nơi trong nước. Nhân giống đu đủ bằng hạt. Thu hạt làm giống ở phần giữa của quả chín trên cây, chà xát nhẹ và đãi bỏ lẫn vỏ nhớt ở ngoài rồi phơi trong bóng râm đến khô.
Hạt đu đủ khô có thể bảo quản qua vài năm trong lọ nút kín. 1kg hạt khô có khoảng 68.000 hạt. Mỗi hecta chỉ cần gieo 6.000 – 7.000 hạt (= 100 g).
Thời vụ gieo hạt ở miền Bắc vào tháng 7, trồng tháng 9; ở Đông Nam Bộ và Tây Nguyên, gieo tháng 2 – 3, trống tháng 4 – 5; ở Tây Nam Bộ gieo tháng 10 – 11, trồng tháng 12 – 1. Trồng ở phạm vi gia đình, có thể gieo hạt vào hốc đào sẵn đã bón phân lót. Mỗi hốc gieo vài hạt. Khi cây mọc, chỉ giữ lại những cây trung bình có lá xanh lục hơi vàng, chia nhiều thuỳ, gốc cây hơi cong. Theo kinh nghiệm của nhân dân, đó là những cây cái.
Trồng kinh doanh, phải gieo hạt vào bầu, khi cây có 3 – 4 lá thật, chọn cây đều nhau, khỏe mạnh đem trồng. Đu đủ trồng được trên đất thoát nước, giữ ẩm tốt, không quá chua và pH thích hợp là 6 – 6,5. Đất trồng phải làm kỹ, không cần lên luống mà làm mương tưới – tiêu thuận lợn.
Đào bố 40 x 40 x 40cm với khoảng cách 2,5 x 2m hoặc 3 x 2m. Giống thấp cây có thể trồng dày hơn. Mỗi hố bón lót 15 – 20kg phân chuồng hoai mục, 0,5 – 1,0kg supe lân, 0,5kg vôi bột, 0,2 – 0.3kg sulfat kali. Trộn đều phân với đất, đồ xuống hố và vun cao 25 – 30cm. Trồng xong cần tưới ngay và giữ ẩm thường xuyên. Dùng rơm, rạ, cỏ khô để phủ gốc.
Chú ý vun gốc cho cây khỏi đổ và tưới nước hợp lý, kịp thời, đảm bảo thoát nước. Do bón nhiều phân nên cỏ dại phát triển nhanh. Cần làm cỏ thường xuyên bằng tay, tránh làm đứt rễ đu đủ. Có thể dùng Paraquat hoặc Diuron (0,5 – 1,1 kg/ha) để trừ cỏ với hiệu quả cao.
Sâu hại chủ yếu của đu đủ là rệp sáp hại quả và lá non, dùng Bi 58 (0,1 – 0,2 %), Mipcin (0,1 – 0,2%); nhện đỏ, rệp, rầy, bọ nhảy, dùng Kenthane (0,3%) hoặc Decis (0,1%) để trừ.
Bệnh hại thường có bệnh thối cổ rễ (chi Phytophthora) do đất quá ẩm, bệnh phấn trắng (nấm Oidium caricae-papayae), nguy hiểm nhất là bệnh hoa lá (virus). Bệnh thối cổ rễ có thể đề phòng bằng cách khơi rãnh thoát nước kịp thời. Bệnh phấn trắng dùng Benlat, Zineb và các thuốc có lưu huỳnh để phun. Đối với bệnh hoa lá, tốt nhất là nhổ bỏ cây bệnh.
Địa chỉ bán cây giống đu đủ uy tín chất lượng ?
Địa chỉ: Ngách 68/45, ngõ 68, đường Nguyễn Văn Linh, phường Long Biên, thành phố Hà Nội.
- Quý khách xin vui lòng liên hệ với Cây cảnh Hải Đăng để được các chuyên viên của chúng tôi tư vấn lựa chọn sản phẩm cây giống đu đủ phù hợp.
- Chúng tôi sẽ chụp ảnh sản phẩm cho quý khách nếu có yêu cầu.
- Chúng tôi sẽ kiểm tra kỹ hàng hóa đảm bảo chất lượng và đúng quy cách trước khi giao.
- Quý khách ở xa vui lòng tiến hành chuyển khoản trước hoặc đặt cọc trước. Nếu quý khách ở nội thành có thể áp dụng ship nhanh với chi phí 50k một lần ship.