Chuối hột rừng chuẩn hàng, khỏe mạnh tại nhà vườn Hải Đăng.
Sửa chính tả và điều chỉnh lại nội dung: 27/3/2025;
Xem cây chuối hột rừng

Chuối hột rừng hay chuối hoang (danh pháp khoa học là Musa acuminata Colla; đồng nghĩa: Musa simiarum Kurz) là loài thực vật thuộc họ Chuối Musaceae. Cây có nguồn gốc từ khu vực Nam Á, bao gồm tiểu lục địa Ấn Độ và Đông Nam Á (trong đó có Việt Nam). Nhiều giống chuối ăn được phổ biến hiện nay đa số có nguồn gốc lai loài chuối hoang này, một số thì là sản phẩm lai giữa Musa acuminata và Musa balbisiana. Loài chuối này được loài người trồng cách đây khoảng 8000 năm trước Công nguyên và là một trong những loài cây được thuần hóa sớm nhất (Chandramita Bora. History of Bananas).
Mô tả chuối hột rừng
Chuối hột rừng M. acuminata là cây thân thảo lâu năm, thường xanh. Phần “thân cây” (thật ra là thân giả) trên mặt đất được tạo thành từ nhiều lớp bẹ lá xếp chặt vào nhau, phát triển từ thân hành nằm hoàn toàn dưới đất hoặc đôi khi lộ thiên. Lá nằm ở đầu bẹ lá, còn gọi là cuống lá. Ở phân loài Musa acuminata subsp. truncata (Ridl.) Kiew, phần phiến lá có thể dài tới 6,7 mét và rộng khoảng 1 mét.
Cụm hoa mọc ngang hoặc thông ra từ thân cây. Hoa có màu trắng đến trắng ngả vàng và phát triển theo hướng ngược trọng lực, tức mọc ngược lên trên và hướng xa mặt đất. Mỗi cụm hoa đều có cả hoa đực và hoa cái. Hoa cái nằm ở gần gốc cụm hoa, sau sẽ phát triển thành quả. Hoa đực lại nằm ở đỉnh chồi gần mặt đất, bên trong cụm lá bắc dai có hình giống nụ hoa.
Quả có hình dáng thon dài và được xếp vào nhóm quả mọng. Kích thước của từng quả phụ thuộc vào số lượng hạt bên trong, mỗi quả có thể chứa từ 15 đến 62 hạt. Một buồng chuối trung bình chứa khoảng 161 quả, dao động ± 60 quả tuỳ từng cây. Mỗi quả có kích thước khoảng 2,4 cm x 9 cm (dài x rộng).
Hạt của chuối hoang M. acuminata thường có đường kính khoảng 5 – 6 mm (cỡ bằng hạt đậu nhỏ), gần tròn hoặc hơi góc cạnh và rất cứng. Mỗi hạt thường hình thành phần cùi xung quanh chứa tinh bột ăn được (nhu mô, thuật ngữ sinh học là parenchyma) có kích thước gấp khoảng 4 lần kích thước của chính chúng, cụ thể là vào khoảng 0,23 cm3 cho mỗi hạt. Về mặt di truyền, chuối hoang M. acuminata là loài lưỡng bội (bộ nhiễm sắc thể 2n = 22), trong khi các giống chuối trồng thương mại hiện nay thường là loại tam bội (bộ nhiễm sắc thể 2n = 33) và có đặc điểm là cho quả không hạt (thuật ngữ sinh học là parthenocarpic).
Những giống chuối ăn tươi quen thuộc hiện nay như chuối tiêu hay chuối ngự đều thuộc phân nhóm chuối Cavendish, được lai tạo qua quá trình chọn lọc các đột biến tự nhiên phát sinh từ quá trình nhân giống sinh dưỡng của nghề trồng chuối. Ở những giống chuối “không hạt”, tỷ lệ cùi so với hạt chênh lệch rất lớn, khi này hạt được bao quanh bởi phần cùi ăn được có kích thước gấp khoảng 23 lần kích thước của chúng. Bản thân hạt cũng dần tiêu biến, chỉ còn là những chấm đen li ti chạy dọc theo trục giữa của quả.
Thông tin thêm
1. Phân bố
Chuối hoang M. acuminata có nguồn gốc từ khu vực sinh địa lý học (biogeographical) Malesia (gồm các nước như Malaysia, Indonesia, Philippines, Papua New Guinea …) và hầu hết khu vực đất liền của bán đảo Đông Dương (Việt Nam, Lào, Campuchia và Thái Lan) (Randy C. Ploetz et al.; 2007).
Chuối hoang M. acuminata thích hợp với nền khí hậu nhiệt đới ẩm, trái ngược với chuối M. balbisiana khỏe hơn và chống chịu tốt hơn. Việc lai tạo giữa 2 loài chuối dại này trong suốt chiều dài lịch sử đã cho ra hầu hết các giống chuối ăn được hiện đại ngày nay (Noël Kingsbury; 2009). Tuy nhiên theo tìm hiểu, việc loài M. acuminata lan rộng ra ngoài vùng bản địa chủ yếu là do con người mang chúng đi (Jeffrey William Daniells & Suzanne L. Sharrock; 2001). Những người nông dân thời đầu đã đưa M. acuminata đến khu vực sinh sống của M. balbisiana, tạo điều kiện ngẫu nhiên cho sự lai tạo và phát triển các dòng chuối vô tính ăn được mang tính thương phẩm ngày nay.
Chuối lai giữa M. acuminata và M. balbisiana được ghi nhận là có mặt ở châu Phi từ rất sớm, khoảng năm 1000 đến 400 trước Công nguyên. Nhiều khả năng chúng được đưa đến Madagascar từ Indonesia.
Từ Tây Phi, chuối được người Bồ Đào Nha đưa đến quần đảo Canary vào thế kỷ 16, và từ đó được mang đến đảo Hispaniola (nay là Haiti và Cộng hòa Dominica) vào năm 1516.
2. Sinh thái học
Nhân giống chuối hoang M. acuminata có thể thực hiện bằng cách gieo hạt hoặc cấy chồi con. Các giống chuối thương phẩm thường được nhân giống bằng cách tách chồi hoặc nhân giống bằng công nghệ nuôi cấy mô trong phòng thí nghiệm, tối ưu hơn cách gieo hạt rất nhiều. Tuy nhiên, hạt vẫn được dùng trong nghiên cứu để phát triển các giống mới có tiềm năng trong tương lai.
M. acuminata cũng được xem là loài cây “cứu cánh” giúp phục hồi những khu vực vừa bị tác động sinh thái mạnh, chẳng hạn như cháy rừng nhờ tốc độ phát triển nhanh. Chưa kể, M. acuminata còn được coi là ‘loài chủ chốt’ trong một số hệ sinh thái, vì nó “mở đường” cho nhiều loài động vật khác đến sinh sống, một số thì sử dụng chuối làm thức ăn, qua đó gia tăng sự đa dạng sinh học.
Hoa chuối có cấu trúc đặc biệt khiến việc tự thụ phấn trở nên rất khó khăn. Phải mất khoảng bốn tháng trời để hoa phát triển thành quả; quả ở gốc thường chín sớm hơn quả ở ngọn.
Nhiều loài động vật tìm đến chuối để ăn như dơi, chim, sóc, chuột bay, cầy hương, chuột, khỉ, vượn, … cũng vô tình giúp chuối phát tán hạt. Hạt trưởng thành có thể nảy mầm nhanh chóng sau 2 – 3 tuần gieo. Nếu chưa nảy mầm, chúng vẫn có thể sống sót từ vài tháng đến tối đa 2 năm nếu được bảo quản kỹ. Dù vậy, nghiên cứu cho thấy cây non được nhân giống từ chồi có khả năng sống cao hơn nhiều so với cây con mọc từ hạt (Dokrak Marod et al.; 2010).
Công dụng của chuối hột rừng
Bộ phận dùng: Rễ, vỏ quả, lõi thân.
Nơi sống và thu hái: Cây mọc hoang ở các thung lũng và sườn núi. Rễ thu hái quanh năm. Vỏ lấy ở những quả đã chín vàng, phơi khô.
Công dụng, chỉ định và phối hợp: Rễ làm an thai; vỏ quả dùng chữa ỉa chảy, lõi thân có thể đắp cầm máu.
Thường dùng 10 – 20 gram rễ sắc nước uống, có thể phối hợp với rễ móc.
Vỏ quả 4 – 8 gram sắc nước uống.
Người ta cũng dùng thân giả của chuối rừng làm rau ăn. Bóc lớp bẹ lá già bên ngoài, lấy phần non bên trong, thái nhỏ ngâm nước cho bớt chát để ăn ghém, xào hoặc muối dưa. Còn bắp chuối cùng bóc bỏ các mo già, thái phần non ngâm nước, rửa nhiều lần cho bớt chát, làm nộm, xào ăn.
Thân rễ (củ) chứa nhiều bột, sau khi cạo bỏ vỏ ngoài, thái nhỏ, có thể nấu canh hay xào ăn.
Địa chỉ mua chuối hột rừng uy tín chất lượng ?
Địa chỉ: Ngách 68/45, ngõ 68, đường Nguyễn Văn Linh, phường Long Biên, thành phố Hà Nội.
- Quý khách xin vui lòng liên hệ với Cây cảnh Hải Đăng để được các chuyên viên của chúng tôi tư vấn lựa chọn sản phẩm bầu giống chuối hột rừng phù hợp.
- Chúng tôi sẽ chụp ảnh sản phẩm cho quý khách nếu có yêu cầu.
- Chúng tôi sẽ kiểm tra kỹ hàng hóa đảm bảo chất lượng và đúng quy cách trước khi giao.
- Quý khách ở xa vui lòng tiến hành chuyển khoản trước hoặc đặt cọc trước. Nếu quý khách ở nội thành có thể áp dụng ship nhanh với chi phí 50k một lần ship.
Tài liệu tham khảo
- Chandramita Bora. “History of Bananas”.
- Musa acuminata – Wikipedia tiếng Anh.
- Randy C. Ploetz et al. (2007). “Banana and plantain — an overview with emphasis on the Pacific island cultivars”. Species Profiles for Pacific Island Agroforestry. Traditional Tree Initiative.
- Noël Kingsbury (2009). Hybrid: the history and science of plant breeding. University of Chicago Press. pp. 31-32.
- Jeffrey William Daniells & Suzanne L. Sharrock (2001). Musalogue, a catalogue of Musa germplasm: diversity in the genus Musa. Bioversity International.
- Dokrak Marod; Piya Pinyo; Prateep Duengkae & Tanaka Hiroshi (2010). “The Role of Wild Banana (Musa acuminata Colla) on Wildlife Diversity in Mixed Deciduous Forest, Kanchanaburi Province, Western Thailand”. Kasetsart Journal: Natural Science. 44 (1). Kasetart University: 35-43.