Sửa chính tả và điều chỉnh lại nội dung: 21/3/2025;
Cây thị, tên tiếng Anh là gold apple (táo vàng) (danh pháp khoa học là Diospyros decandra Lour, đồng nghĩa: Diospyros packmannii C.B.Clarke) là một loại cây ăn quả nhiệt đới thuộc họ Thị Ebenaceae và là giống phổ biến ở các nước như Việt Nam, Thái Lan.

Mô tả cây thị
Cây thị là loài cây thân gỗ, cây đến tuổi trưởng thành cao trung bình khoảng 5 – 6 m (có những cây cổ thụ hàng trăm tuổi cao hơn 20 m). Lá mọc so le, phiến lá hình thuôn, dài 5 – 8 cm, rộng 2 – 4 cm; cuống lá dài 6 – 9 mm, có phủ lông. Hoa đa tính, mọc thành chùm xim, màu trắng; đài hợp ở gốc 4 răng, cả 2 mặt đều có lông, 8 – 14 nhị, nhụy có 2 vòi. Quả tròn hơi dẹp, đường kính 3 – 5 cm, có 6 – 8 ngăn (hay còn gọi là múi), khi chín màu vàng, mang đài tồn tại (vốn là đặc trưng của họ Thị). Hạt cứng, dẹt, dài 3 cm, phôi sừng. Mùi thơm hay khó chịu tùy theo người thích hay không thích.
Thông tin thêm
1. Phân bố, thu hái và chế biến
Giống được trồng ở khắp nơi ở Việt Nam, chủ yếu để lấy quả ăn. Quả hái về vào các tháng 8 – 9. Ngoài ra người ta còn dùng lá tươi hay phơi khô làm thuốc. Không có chế biến gì đặc biệt.
2. Thành phần hóa học
Cây ba kích – Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi (đã sửa chính tả):
Vỏ quả chứa một ít tinh dầu mùi gần giống mùi ete amyl valerianic.
Thịt quả thị theo kết quả phân tích của Peirier (1932) có 86,20% nước; 0,16% chất béo; 0,67% chất protid; 12% glucid; 0,33% tanin; 0,47% xenlulose; 0,50% tro.
Tanin trong thị thuộc loại tanin pyrocatechic, khi bị Oxy hóa thì cho chất màu đỏ nâu. Peirier cho đó là hoạt chất chính.
Lá thì vẫn chưa có tài liệu nghiên cứu.
3. Tác dụng dược lý
Cây ba kích – Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi (đã sửa chính tả):
Năm 1932, dựa trên kinh nghiệm nhân dân cho trẻ con ăn quả thị vào sáng sớm lúc đói thì thấy có khi ra giun, Peirier có thí nghiệm xem tác dụng của thịt quả thị phơi khô trên giun đất. Dùng 20g bột thịt quả thị phơi khô tán nhỏ, chiết bằng 200ml nước. Với liều 5ml, giun bị tê liệt hoàn toàn sau 8 giờ, với liều 10ml, giun chết sau 4 giờ, với liều 15ml giun chết sau 1 giờ.
Năm 1961 – 1962, dựa trên kinh nghiệm của nhân dân dùng lá thị gây trung tiện và căn cứ vào việc lá thị đã dùng trên lâm sàng ở bệnh viện Phú Thọ điều trị có kết quả để gây trung tiện sau khi mổ, Lưu Văn Dung ở Khoa dược lý Trường sĩ quan quân y đã nghiên cứu tác dụng dược lý và độc tính của lá thị, kết quả đầu tiên như sau:
1. Tác dụng trên ruột: Bằng phương pháp mổ bụng, bộc lộ ruột để quan sát sự co bóp ruột bằng mắt thường với liều 2 – 3 – 5ml nước sắc lá thị 20 – 100% tiêm vào tĩnh mạch vành tai của thỏ thì thấy ruột tăng co bóp, nhất là ở trực tràng có hiện tượng căng phồng lên, nhu động đều và tống phân ra ngoài.Trên ruột thỏ cô lập theo phương pháp Magnus, 5 – 8 – 10 giọt nước sắc lá thị 100% nhỏ vào dung dịch Tyrod nuôi đoạn ruột cô lập làm tăng co bóp của ruột non cả về tần số lẫn biên độ. Nếu tiêm 2 – 3 – 5ml nước sắc lá thị 100% trên 1kg thể trọng vào tĩnh mạch vành tai của thỏ thì cả tá tràng và trực tràng đều co bóp rất mạnh, so với tác dụng trên ruột non cô lập và tại chỗ thì tác dụng trên trực tràng mạnh hơn cả về tần số lẫn biên độ, tác dụng cũng rõ rệt và lâu dài hơn. So sánh với tác dụng của Syntostigmin thì thấy rất giống.
2. Tác dụng trên cơ vận của bộ xương: Dùng cơ năng chân ếch cô lập và phương pháp Claude Berard trên cơ thể toàn vẹn thì đều thấy lá thị đã làm cho cơ phản ứng nhạy hơn đối với các kích thích điện trực tiếp trên cơ và dây thần kinh hông ếch. Tác dụng này cũng giống tác dụng của prostigmin.
3. Những tác dụng khác: Liều nhỏ làm tăng biến độ tim, liều cao làm yếu tim, loạn nhịp và đình tim. Làm giãn mạch. Liều nhỏ ít ảnh hưởng tới huyết áp nhưng liều cao gây hạ huyết áp. Hô hấp hơi tăng cả về tần số lẫn biên độ.
Công dụng và liều dùng cây thị



Năm 1961. Bệnh viện Phú Thọ đã dùng nước sắc lá thị (100g là thị phơi khô, sắc với nước và lấy đúng 100ml), mỗi ngày cho uống 10 – 20 – 30ml, đồng thời lấy bông tẩm nước sắc này đắp vào rốn để chữa bệnh không trung tiện được sau khi mổ. Kết quả rất tốt.
Trong nhân dân, thường dùng lá thị phơi khô cho hút để gây đánh trung tiện, lá tươi giã đắp vào mụn nhọt cho chóng tan.
Thịt quả thị ăn nhiều vào lúc đói có thể trị được giun kim (kinh nghiệm nhân dân).
Vỏ quả thị phơi khô đốt thành than được dùng bôi lên các nơi phồng do con giời leo gây ra. Có khi người ta đốt vỏ quả thị thành than, trộn với than của cuống chiếu (chiếu trải giường nằm) và đinh hương tán nhỏ thổi vào các lỗ rò ở hậu môn.
Thị trong văn hóa Việt
Quả thị có tiếng là thơm, được chuộng tại Việt Nam. Người ta còn đan cái giỏ nhỏ chỉ vừa để đựng quả thị rồi treo lên trong nhà để thưởng thức hương thị.
Theo kinh nghiệm và truyền thống dân gian ở Việt Nam, để ăn thị người ta nắn, bóp nhẹ đều khắp bề mặt quả cho đến khi thịt quả mềm ra (tới nẫu, thậm chí nứt, rách vỏ) để giảm vị chát (cách ăn thú vị nhất là sau khi đã làm mềm quả, khéo léo tách bỏ núm (đài) ra khỏi vỏ, để lại một lỗ tròn và ăn bằng cách hút thịt và cả hạt từ lỗ tròn đó).
Quả thị chín vào cuối mùa hè đến hết mùa thu. Mùi hương quả thị dịu nhẹ nhưng “không thể giấu được”. Ở các vùng quê, những người nấu rượu gạo rất kị mùi hương quả thị, nếu để quả thị trong nhà thì cả mẻ rượu sẽ bị hỏng.
Cây thị ngoài việc lấy quả cũng được trồng làm cây cảnh (bonsai).
- Quả thị có mặt trong truyện cổ tích dân gian Việt Nam: Tấm Cám.
- Thành ngữ: Ngậm hạt thị (ngậm hột thị), miệng ngậm hạt thị hoặc miệng lúng búng như ngậm hạt thị.
Địa chỉ mua cây thị giống uy tín chất lượng ?
Địa chỉ: Ngách 68/45, ngõ 68, đường Nguyễn Văn Linh, Thạch Bàn, Long Biên, Hà Nội
- Quý khách xin vui lòng liên hệ với Cây cảnh Hải Đăng để được các chuyên viên của chúng tôi tư vấn lựa chọn sản phẩm giống cây thị phù hợp.
- Chúng tôi sẽ chụp ảnh sản phẩm cho quý khách nếu có yêu cầu.
- Chúng tôi sẽ kiểm tra kỹ hàng hóa đảm bảo chất lượng và đúng quy cách trước khi giao.
- Quý khách ở xa vui lòng tiến hành chuyển khoản trước. Nếu quý khách ở nội thành có thể áp dụng ship nhanh với chi phí 30k một lần ship.
Tài liệu tham khảo
- Wikipedia Tiếng Việt.
- Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam.