Độ hoàn thiện nội dung: 70%.
Hoa hòe hay cây hòe, tên tiếng Anh là Japanese pagoda tree, Chinese scholar tree, pagoda tree (danh pháp khoa học là Styphnolobium japonicum (L.) Schott, đồng nghĩa: Sophora japonica L.) là loài thực vật thuộc họ Đậu Fabaceae.αβ
Hoa hòe là cây bản địa Đông Á (chủ yếu là Trung Quốc; và như tên gọi Latin, nó được di thực đến Nhật Bản). Tại Việt Nam hòe được trồng làm cảnh và dùng làm thuốc. Thường dùng hoa hòe và quả hòe.




Mô tả cây hoa hòe
Cây hòe – Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – Tập I – Đỗ Huy Bích cùng các tác giả khác (đã sửa chính tả):
Cây nhỏ thường xanh, cao 5 – 7m, có khi đến 10m. Thân có vỏ hơi nứt nẻ và cành nằm ngang. Cành hình trụ, nhẵn, màu lục nhạt, có những chấm trắng. Lá kép lông chim lẻ, mọc so le, 11 – 17 lá chét mọc đối, hình bầu dục – thuôn, gốc tròn, đầu hơi nhọn, dài 3 – 4,5cm, rộng 1,2 – 2cm, màu lục nhạt, nhất là ở mặt dưới, hơi có lông.
Cụm hoa mọc ở đầu cành thành chùm dài 20cm, phân nhánh nhiều; hoa nhỏ màu trắng hoặc vàng nhạt; đài hình chuông, gần như nhẵn; cánh hoa có móng ngắn, cánh cờ rộng, hình tim cụt ở gốc, mép cong lên; nhị 10 rời nhau; bao phần hình bầu dục. Quả đậu, hình tràng hạt, thắt lại không đều giữa các hạt, nhẵn, không mở, đầu có mũi nhọn ngắn; hạt 2 – 5, hình bầu dục, hơi dẹt, màu đen bóng. Mùa hoa: tháng 5 – 8, mùa quả: tháng 9 – 11.
Trong dân gian, người ta phần biệt cây hòe nếp và cây hòe tẻ. Kinh nghiệm của Thái Bình (nơi trồng nhiều hòe nhất trong cả nước) cho biết:
– Hòe nếp: Hoa to, nhiều, đều, nở cùng một lúc, có màu nhạt, cuống ngắn. Cây phát triển nhanh, phân nhiều cành.
– Hòe tẻ: Hoa nhỏ, thưa thớt, không đều, nở nhiều đợt, có màu sẫm hơn, cuống dài. Cây vồng cao, phân ít cành.
Thông tin thêm
1. Phân bố, thu hái và chế biến
Cây hòe – Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – Tập I – Đỗ Huy Bích cùng các tác giả khác (đã sửa chính tả):
Chi Styphnolobium L. gồm hầu hết là cây bụi hay cây gỗ, phân bố chủ yếu ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới. Việt Nam có 5 loài, trọng đó hòe là cây trồng.
Hòe được trồng rộng rãi ở các tỉnh phía bắc hiện nay vốn là cây nhập nội, chưa rõ nguồn gốc. Từ năm 1978, cây được đưa vào các tỉnh Tây Nguyên, ven biển miền Trung sau lan ra các tỉnh khác. Những tỉnh trồng nhiều hòe hiện nay là Thái Bình, Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Nam, Lai Châu (vùng Điện Biên), Sơn La, Vĩnh Phúc, Bắc Giang. Trên thế giới hòe cũng được trồng ở Trung Quốc, Nhật Bản và một số nước khác.
Hòe thuộc loại cây gỗ trung sinh, ưa sáng và ưa ẩm, thường được trồng ở vườn gia đình xen với cây ăn quả. Vài năm trở lại dây, cây được trồng có kết quả tốt ở cả vùng đồi, đất cao nguyên ở Mộc Châu, Điện Biên, Đắk Lắk, hoặc ở đất mới khai hoang vùng Tam Điệp (Ninh Bình). Nhiệt độ không khí trung bình khoảng 23 – 26oC. Cây ít thấy trồng ở những vùng cận nhiệt đới, núi cao như Sapa (Lào Cai); Đồng Văn (Hà Giang). Những cây trồng ở Trại thuốc Tam Đảo phát triển kém hơn cây trồng ở vùng đồi trung du và đồng bằng. Cây trồng từ hạt sau 3 – 4 năm bắt đầu có hoa quả; các năm sau nhiều hơn.
2. Thành phần hóa học
Cây hoa hòe – Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi (đã sửa chính tả):
Trong hoa hòe có từ 6 – 30% rutin (rutoside). Rutin là một glucoside, thủy phân sẽ cho quercetin C15H10O7, glucose và rhamnose.
Trong quả cũng có rutin. Rutin là một chất có tinh thể hình trăm nhỏ màu vàng hay trắng vàng, tan trong 10.000 phần nước, 650 phần rượu, tan nhiều trong rượu metylic và dung dịch kiềm, không tan trong ete chlorofom và benzen. Khi tan trong dung dịch kiểm, vòng cromon bị phá, dung dịch có màu vàng, nhưng tính chất không ổn định, thêm axit vào có thể kết tủa.
Cây hòe – Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – Tập I – Đỗ Huy Bích cùng các tác giả khác (đã sửa chính tả):
Nụ hòe, là nguyên liệu giàu rutin so với các nguyên liệu khác. Dược điển Việt Nam II (tập 2 và tập 3) quy định hàm lượng rutin phải đạt 20%. Với nụ hòe Việt Nam, hiệu suất chiết xuất có thể đạt tới 34%. Có thể so sánh với một số nguyên liệu khác:
– Hòe Hungary có 12% rutin.
– Mạch ba góc châu Âu (Fagopyrum esculentum Moench) 2 – 3% rutin (mạch ba góc trồng ở Việt Nam có 5,8% rutin).
– Bạch đàn (Eucalyptus macrorhyncha F.Muell. ex Benth.) 3 – 4% rutin (có tài liệu ghi cao hơn).
Hoa đã nở chứa 8% rutin.
Rutin còn có ở nhiều bộ phận khác của cây: 4 – 11% ở vỏ quả, 0,5 – 2% ở hạt, 5 – 6% ở lá chét và 0,5 – 2% ở cành con. Hòe nếp chứa nhiều rutin (44%) hơn hòe tẻ (40,6%). Qua chế biến, hàm lượng rutin có thể thay đổi, đạt 34,7% ở dạng sống; 28,9% ở dạng sao vàng và 18.5% ở dạng sao cháy (Phạm Xuân Sinh và cs, 1997).
Rutin (rutoside) là những tinh thể hình kim, màu vàng nhạt, để ra ánh sáng chuyển màu sẫm, 1g rutin hòa tan trong 8000ml nước ở nhiệt độ thường, khoảng 200ml nước sôi, 7ml methanol sôi, 650ml cồn lạnh và 60ml cồn nóng. Rutin tan trong pyridin, formamide, dung dịch kiềm, dễ tan trong acetone, ethylacetone, không tan trong chloroform, carbon sulfide, carbon tetrachloride, ether, benzene, ether dầu hỏa. Điểm chảy 177 – 178oC (với 3 phần tử nước).
Chiết xuất rutin có nhiều cách nhưng đơn giản nhất là chiết bằng nước nóng, rồi để lạnh, rutin sẽ tách ra. Cũng có thể chiết hàng nước carbonat kiềm, rồi acid hóa. Tinh chế bằng cách hòa tan lại trong nước nóng hoặc cồn nóng.
Có tài liệu để cập đến diệt men trong nguyên liệu trước khi chiết xuất.
Ngoài ra, nụ hòe còn chứa betulin, sophoradiol, sophorin A, sophorin B, sophorin C và sophorose.
Ngoài các chất rutin và quercetin, quả còn chứa genistein, sophoricoside, sophorabioside, genistein-7-diglucoside, genistein-7-diglucorhamnoside, kaempferol, kaempferol-3-sophoroside, kaempferol-3-rhamnodiglucoside, sophorose.
Hạt hòe chứa 1,75% flavonoid toàn phần, trong đó có rutin (0,5%), một số alkaloid (0,035%) trong đó có cytisine, N-methyl cytisine, sophocarpine, matrine. Ngoài ra, còn có 8 – 24% chất béo và galactomannan.
Lá hòe chứa 4,4% rutin, 19% protein và 3,5g lipid.
Rễ chứa irisolidone; 5,7-dihydroxy-3,4′-methylenedioxyisoflavon, biochanin A, flemichaparin B, maackianine, sophojapanicin, puerol A, puerol B, sophoroside.
Gỗ chứa rutin, irisolidone 7-D-glucoside, biochanin A-7-D-xylosylglucoside, biochanin A -7-D-glucoside (sissotrin).
3. Tác dụng dược lý
Cây hoa hòe – Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi (đã sửa chính tả):
Rutin là một loại vitamin P, có tác dụng tăng cường sức chịu đựng của mao mạch. Chữ P là chữ đầu của chữ perméabilité có nghĩa là thấm. Ngoài rutin có tính chất vitamin P ra, còn nhiều chất khác có tính chất đó nữa như esculoside, hesperidin (trong vỏ cam) …
Rutin có tác dụng chủ yếu là bảo vệ sức chịu đựng bình thường của mao mạch. Thiếu chất vitamin này tính chất chịu đựng của mao mạch có thể bị giảm, mao mạch dễ bị đứt vỡ, hiện tượng này trước đây người ta chỉ cho rằng do thiếu vitamin C mà có, gần đây mới phát hiện sự liên quan đối với vitamin P.
Theo Parrot, cơ chế, tác dụng của vitamin P như sau: Vitamin P làm giảm sự phá hủy của adrenalin trong cơ thể. Đồng thời Parrot cũng phát hiện rằng adrenalin cũng có tác dụng tăng sức chịu đựng của mao mạch, nhưng tác dụng này đối với huyết áp lại không giống, cần tiêm 10 đến 30 phút trước thì tác dụng mới xuất hiện và kéo dài vài giờ. Do đó Parrot cho rằng vitamin P cản trở sự phá hủy của adrenaline trong cơ thể vì thế sức chịu đựng của mao mạch được tăng cường.
Theo Hoàng Chiều Đức (Trung nam y học tạp chí, 1952).
– Nước sắc hoa hòe đã lọc bỏ rutin đi rồi vẫn làm giảm huyết áp của chó đã gây mê.
– Có tác dụng hưng phấn nhẹ đối với tim cô lập của ếch.
– Có tác dụng kích thích sự bài tiết của niêm mạc ruột.
Một tác giả khác (Trung quốc 1952) có nghiên cứu trên tử cung có thai và không có thai đều thấy có tác dụng kích thích và đối với chó gây mê có tác dụng lợi tiểu tạm thời.
Cây hòe – Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – Tập I – Đỗ Huy Bích cùng các tác giả khác (đã sửa chính tả):
Tác dụng tăng cường sức đề kháng, giảm tính thẩm thấu của mao mạch: Rutin và quercetin đều có tác dụng tăng cường sức đề kháng, giảm tính thẩm thấu của mao mạch, hồi phục tính đàn hồi của mao mạch đã bị tổn thương. Trên thỏ thí nghiệm, rutin tiêm tĩnh mạch với liều 1mg/kg làm chậm sự khuếch tán của các chất màu (như xanh trypan, xanh evans) vào tổ chức dưới da khi chúng được tiêm bằng đường tĩnh mạch. Về cơ chế tác dụng, có tác giả cho rằng trong cơ thể, rutin tham gia vào quá trình oxy hóa-khử, làm giảm hiện tượng oxy hóa adrenalin bằng cách ức chế cạnh tranh với men catecholamin-O-methyltransferase, do đó lượng adrenalin bị phá hủy trong tuần hoàn giảm, mà adrenalin chính nó lại có tác dụng tăng cường sức đề kháng của mao mạch. Như vậy, tác dụng làm giảm tính thẩm thấu mao mạch là thông qua ảnh hưởng của rutin và quercetin đối với sự chuyển hóa của adrenalin. Mặt khác, rutin lại có khả năng làm co mạch trực tiếp hệ mao quản, nên cũng có thể là hiện tượng giảm tính thẩm thấu của mao mạch là do tác dụng co mạch trực tiếp gây nên. Ở người cao tuổi, mao mạch không còn nguyên vẹn như trước và sư trao đổi chất giảm dần càng thúc đẩy quá trình lão hóa. Trong trường hợp này, rutin lại có khả năng duy trì tình trạng bình thường của mao mạch, bảo đảm cho mao mạch làm được chức năng trao đổi chất. Ngoài ra, rutin còn có thể làm tăng trương lực tĩnh mạch, củng cố sức bền thành mạch, do đó hạn chế được hiện tượng bị suy tĩnh mạch lúc tuổi già.
Các dụng chống viêm thí nghiệm trên chuột cống trắng: Rutin và quercetin có tác dụng ức chế phù bàn chân chuột do albumin, histamin, serotonin gây nên cũng như sưng khớp khuỷu do men hyaluronidase tạo nên. Trên thỏ, rutin tiêm tĩnh mạch có thể phòng ngừa viêm da dị ứng và hiện tượng Arthus (Arthus phenomenon) trên động vật đã được gây mẩn. Trên chó gây viêm tắc tĩnh mạch thực nghiệm bằng cách tiêm dầu thông, dùng rutin điều trị có tác dụng thúc đẩy quá trình hồi phục bệnh. Cơ chế chống viêm của các flavon dạng rutin hiện có nhiều giả thuyết như kích thích tuyến thượng thận tiết adrenalin, làm tăng hàm lượng adrenalin trong máu bằng cách ức chế men catecholamin-methyltransferase hoặc monoamin oxidase, hoặc ức chế men hyaluronidase.
Tác dụng bảo vệ cơ thể chống chiếu xạ: Trên chuột nhắt trắng, rutin tiêm dưới da với liều 2mg/kg có tác dụng làm giảm tỷ lệ tử vong của súc vật bị chiếu xạ với liều lớn và đối với chuột nhắt trắng tiêm nitromint với liều chí tử, rutin cũng có tác dụng bảo vệ tương tự.
Tác dung hạ huyết áp, hạ cholesterol-máu: Dịch chiết từ nụ hòe, bằng đường tiêm tĩnh mạch trên chó đã gây mê, có tác dụng hạ huyết áp rõ rệt. Trên chuột cống trắng cao huyết áp di truyền, rutin tiêm tĩnh mạch với liều 1mg/kg cũng có tác dụng hạ huyết áp. Trên chuột cống trắng gây cholesterol-máu tăng cao bằng cách trộn vào thức ăn hàng ngày cholesterol 30mg/kg và 6-methylthiouracil 90mg/kg, quercetin tiêm dưới da với liều 10 mg/kg có tác dụng hạ cholesterol-máu, đồng thời có tác dụng điều trị và phòng ngừa bệnh xơ vữa động mạch thực nghiệm.
Tác dụng cầm máu: Than nụ hòe sao cháy và nước sắc nụ hòe với liều 9g/kg tiêm xoang bụng cho chuột cống trắng có tác dụng rút ngắn thời gian chảy máu. Trong thí nghiệm này than nu hòe sao cháy ở nhiệt độ 190 – 195oC thể hiện tác dụng mạnh nhất.
Tác dụng chống kết tập tiểu cầu: Rutin trên thỏ thí nghiệm, tiêm phúc mạc với liều 0,2g/kg làm giảm số lượng tiểu cầu và ức chế kết tập tiểu cầu. Quercetin với nồng độ 50 – 500 µmol/lá, thí nghiệm ngoài cơ thể có tác dụng tăng cao hàm lượng cAMP trong tiểu cầu của người và ức chế kết tập tiểu cầu do ADP gây nên. Cơ chế tác dụng chống kết tập tiểu cầu của quercetin là làm thay đổi quá trình chuyển hóa của cAMP ở tiểu cầu thông qua sự ức chế hoạt động của men phosphodiesterase, làm tăng hàm lượng cAMP. Người ta đã chứng minh cả 2 men cAMP và cGMP phosphodiesterase đều bị ức chế, tuy thuộc vào nguồn gốc tổ chức học của men và cấu trúc của flavon. Quercetin là một trong số các chất có tác dụng ức chế hoạt động của 2 men trên.
Tác dụng đối với tim: Trên tiêu bản tim ếch cô lập, quercetin thể hiện tác dụng cường tim. Tác dụng này không giống với tác dụng cường tim của isoprenalin và không liên quan đến các thụ thể β (β-receptor). Trên tim ếch cô lập, dùng dung dịch quercetin với nồng độ 50 – 100 µmol/lít thì hàm lượng cAMP trong cơ tim tăng 40% còn hàm lượng cGMP không thay đổi, chứng tỏ quercetin ức chế một cách có chọn lọc men cAMP phosphodiesterase. Tác dụng cường tim của quercetin có khả năng là kết quả của tác dụng ức chế men cAMP phosphodiesterase, làm tăng lượng cAMP trong cơ tim.
Quercetin có tác dụng làm giãn mạch vành, cải thiện tuần hoàn tim. Trên mô hình gây thiếu máu cơ tim thực nghiệm, quercetin tiêm truyền tĩnh mạch 10ml/kg dung dịch có nồng độ 0,5 mmol/lít có tác dụng làm giảm thời gian xuất hiện rối loạn nhịp tim, hạ thấp hàm lượng MDA (malondialdehyde) trong tổ chức cơ tim và bảo vệ men SOD (superoxide dismutase). Ngoài ra, nụ hòe còn có tác dụng làm giảm lượng tiêu hao O2 của cơ tim.
Các tác dụng khác: Có báo cáo cho biết rutin với liều 40 – 400mg/kg, quercetin với liều 20 – 80mg/kg có tác dụng kéo dài thời gian sống của chuột nhắt đã được tiêm truyền tế bào u NK/Ly. Nhiều công trình nghiên cứu đã khẳng định tác dụng chống phản ứng phản vệ của hoa hòe. Thí nghiệm trên hồi trường chuột lang đã được gây mẫn cảm bằng lòng trắng trứng, quercetin có tác dụng ức chế co bóp của hồi trường, nồng độ ức chế 50% co bóp IC50 khoảng 10 µmol/lít. Quercetin là flavon tự nhiên có tác dụng ức chế mạnh sư giải phóng histamin từ các tế bào ưa kiềm (basophils) do kháng nguyên gây nên.
Ngoài ra, rutin còn có tác dụng bảo vệ gan, thí nghiệm trên chuột cống trắng, dùng carbon tetrachloride gây tổn thương gan thì hoạt động của men cytochrome P.450 bị ức chế, dùng rutin bằng đường dạ dày với liều 100 mg/kg có tác dụng kích hoạt trở lại hoạt động của men trên.
Đối với hệ cơ trơn của ruột và khí phế quản, quercetin có tác dụng làm giảm trương lực cơ, tác dung giải co thắt cơ trơn của quercetin lớn hơn nhiều so với rutin.
Đáng quan tâm là người ta phát hiện rutin và quercetin có tác dụng gây đột biến (mutagenicity) khi tiến hành thí nghiệm với Salmonella typhimurium TA1535, TA100, TA1537 và TA1538. Do đó, người ta đã tiến hành nghiên cứu nhiều thí nghiệm để xem chúng có khả năng gây ung thư hay không. Trên chuột cống trắng dùng thức ăn có 10% rutin hoặc 10% quercetin, dùng liên tục trong 85 ngày, kết quả không có sự khác nhau có ý nghĩa về tần suất xuất tiên khối u giữa lô dùng thuốc và lô chứng. Trên chuột nhắt trắng nuôi với chế độ ăn có 2% quercetin từ tuổi 6 tuần lễ đến suốt đời, kết quả không có sự khác nhau có ý nghĩa về tần suất xuất hiện khối u giữa lô dùng thuốc và lô chứng. Kết quả cũng giống như vậy khi chuột hamster được nuôi với chế độ ăn có 10% rutin hoặc 10% quercetin. Thí nghiệm trên chuột cống trắng Fischer, quercetin cũng không có tác dụng gây ung thư, rutin dùng cho chuột cống trắng Sprague Dawley cũng có kết quả tương tự. Như vậy, rutin và quercetin đã được khẳng định là không có tác dụng gây ung thư. Mặt khác quercetin còn được chứng minh là có tác dụng ức chế khối u do 12-O-tetradecanoylphorbol-13-acetate (TPA) gây nên.
Nghiên cứu dược động học về quercetin trên người cho thấy quá trình đào thải trong cơ thể của quercetin là 2 pha với t1/2α = 8,8 phút và t1/2β = 2,4 giờ sau khi dùng một liều đơn độc. Trong máu dạng liên kết với protein chiếm 98%. Có khoảng 7,4% của liều tiêm tĩnh mạch được bài tiết qua nước tiểu dưới dạng liên kết và khoảng 0,6% dưới dạng nguyên thể. Dùng qua đường uống, nồng độ thuốc trong máu rất thấp không đo được.
Công dụng và liều dùng cây hoa hòe
Hoa hòe có vị đắng, tính mát, vào 2 kinh can và đại tràng, có tác dụng thanh nhiệt, lương huyết, chỉ huyết. Quả hòe có vị đắng, tính hàn
Trong y học hiện đại, nụ hòe và rutin được dùng làm thuốc cầm máu trong các trường hợp xuất huyết, đề phòng tai biến do mạch máu bị xơ vữa, giòn dễ vữa, khi có biểu hiện về tổn thương mao mạch, xuất huyết dưới da, xuất huyết võng mạc, xuất huyết có liên quan đến xơ vữa động mạch, tăng huyết áp. Thuốc còn dùng chữa bệnh tăng huyết áp thể vừa và nhẹ, hạn chế được sự xuất hiện chảy máu não nhờ củng cố được thành mạch, giảm khả năng sinh ra các vi túi phình là nơi xung huyết để vỡ. Do đó, người cao tuổi bị tăng huyết áp nên dùng hòe. Ngoài tác dụng điều trị đối với các rối loạn mạch máu do tăng huyết áp, hòe còn được dùng cho xơ vữa động mạch, bệnh mạch do đái tháo đường, bệnh võng mạc và thiểu năng tuần hoàn não. Dùng dưới dạng nụ hòe, quả hòe sắc nước uống hoặc dưới dạng hoạt chất. Rutin thường được dùng cho những bệnh nhân tăng huyết áp, mao mạch dễ vỡ để đề phòng đứt mạch máu não, xuất huyết cấp tính do viêm thận Có thể dùng phối hợp với papaverin.
Liều dùng: Nụ hòe sao vàng mỗi ngày dùng 6 – 20g sắc nước uống hoặc hãm uống như chè. Viên rutin 0,02g và viên rutin-C gồm rutin 0,02g và vitamin C 0,05g. Mỗi lần uống 1 – 2 viên, mỗi ngày uống 2 – 7 lần. Trên thị trường quốc tế còn có loại thuốc tiêm rutin tan, được gọi là solurutin dùng để tiêm bắp thịt hoặc tĩnh mạch khá cần thiết.
Bài thuốc có hoa hòe:
Chữa đi ngoài ra máu: Nụ hòe (sao) 20g, lá trắc bá (sao) 20g, chỉ xác 12g, hoàng liên 8g, kinh giới 8g. Thái nhỏ sắc với 400ml nước còn 100ml. Chia làm 2 lần uống trong ngày.
Chữa tăng huyết áp, đau đầu choáng váng, ngón tay hơi tê, đầu óc căng thẳng, khó ngủ: Nụ hòe (sao vàng), hạt muồng (sao); hai vị lượng bằng nhau, tán bột, mỗi lần uống 5g, ngày dùng 10 – 20g, hoặc dùng riêng mỗi vị 10g sắc nước uống.
Chữa tăng huyết áp, đau mắt: Nụ hòe 10g, lá sen hoặc ngó sen 10g, cúc hoa vàng 4g. Sắc nước uống.
Chữa lòi dom: Quả hòe phối hợp với khổ sâm, lượng bằng nhau, nghiền thành bột mịn, hòa với nước, dùng bôi ngoài.
Chữa trĩ nội, viêm ruột: Quả hòe 100g (sao kỹ đên khi có màu tím sẫm), kim ngân hoa 100g, cam thảo dây 12g, nghệ vàng 10g. Tán bột, trộn đều. Ngày uống 3 lần, mỗi lần 8g vào lúc đói (kinh nghiệm của lượng y Am, Kim Sơn, Ninh Bình).
Chú ý: Phụ nữ có thai không được dùng quả hòe, vì dễ bị sảy thai.




Cây hoa hòe trong phong phong thuỷ
Trong đông y cây hoa hòe có nhiều tác dụng cho sức khỏe, nhưng đến với dân gian, ngụ ý cát tường của cây hòe đã thế tục hóa thêm một bước. Ví dụ, vì cây hòe tượng trưng cho tam công, trồng cây hòe mong con cháu được liệt vào hàng tam công, do đó cây hòe đã được liên hệ với con cháu, dân gian có nhiều người dùng nó để cầu sinh con: Trước đây dân chúng huyện Đăng thuộc tỉnh Sơn Đông coi cây hòe là linh vật cầu con cái, cho rằng người phụ nữ chưa mang thai ăn hạt hòe sẽ mang thai. Vì thế cây hòe lại có thêm một “tác dụng” nữa, đặc biệt có lợi trong cầu tiền của, vì vậy mới có câu “một cây hòe trước nhà, không chiêu tiền bạch cũng chiêu của báu”.
Kỹ thuật trồng và thu hái hoa hòe
Cây hòe – Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – Tập I – Đỗ Huy Bích cùng các tác giả khác (đã sửa chính tả):
Hòe được trồng tương đối tập trung ở Thái Bình (Thái Thụy), Nghệ An (Quỳnh Lưu) và Hà Nam, ngoài ra còn được trồng phân tán ở hầu khắp các tỉnh.
Cây có thể nhân giống bằng hạt hoặc bằng giâm cành. Hạt giống được chọn từ những cây hòe tốt, nhiều hoa, có 15 – 20 năm tuổi. Hạt được gieo trong vườn ươm vào mùa xuân, khi cây được một năm tuổi, đánh đi trồng. Cần ngâm hạt cho no nước, ủ nảy mầm mới đem gieo. Đất vườn ươm cần làm kỹ, lên luống và gieo với khoảng cách 15 x 20 hay 20 x 20cm. Gieo xong phủ đất dày 1cm và tưới ẩm, làm cỏ chăm sóc thường xuyên. Hòe còn được trồng bằng cành giâm nhưng phải xử lý ra rễ bằng chất kích thích. Cách này chưa được phổ biến rộng rãi trong sản xuất.
Hòe được trồng trên đất tận dụng hai ven đường, bờ mương, bờ hồ … Khi trồng, người ta đào hố 50 x 50 x 50cm, cách nhau 4 – 5m, bón lót chừng 10 – 15kg phân chuồng và đặt cây giống. Sau đó tưới ẩm cho đến khi cây bén rễ.
Chưa phát hiện thấy sâu bệnh đặc biệt đối với cây hòe. Cây trồng sau 3 – 4 năm bắt đầu thu hoạch.
Nụ hoa đã phơi hoặc sấy nhẹ đến khô. Để thu hái nụ, người ta chọn những chùm hoa có từ 5 – 10 hoa nở (không nên thu hoạch sớm quá hoặc muộn quá, năng suất thấp). Dùng sào tre nhỏ, nhẹ, dài, phía đầu có đoạn tre nhỏ làm chạc đôi để dễ bẻ cuống chùm hoa. Thời gian thu hái chủ yếu từ tháng 5 đến tháng 10 (rộ nhất vào tháng 7 – 8) vào buổi sáng. Sau đó, phơi luôn trong ngày cho đến khi bóp nụ giòn tan là được. Có nơi, nhân dân thu hái làm 2 vụ:
– Vụ mùa từ tháng 4 đến tháng 9, năng suất thu hoạch cao, hàm lượng rutin không bằng vụ chiêm.
– Vụ chiêm từ tháng 10 đến tháng 1 năm sau, năng suất thu hoạch thấp, hàm lượng rutin lại cao.
Việc phơi hay sấy khô cần được tiến hành nhanh chóng. Nếu thu hoạch vào thời tiết mưa, có thể sấy ở 60 – 70oC. Dược liệu có màu vàng, vị hơi đắng, dài 0,5 – 0,8cm, rộng 0,2 – 0,3cm, cánh hoa vàng nâu, đài hoa vàng xám. Loại nụ có màu vàng ngà, không ẩm mốc, không lẫn cuống lá, nụ nhỏ và tạp chất, là tốt. Nụ hòe có thể dùng sông hoặc sao cháy.
Các bộ phận khác cũng được dùng làm thuốc như hoa đã nở (hòe hoa), quả (hòe giác) và lá đã được phơi hoặc sấy khô. Quả hòe khi khô, nhăn nheo, màu đen nâu, hình chuỗi hạt, dễ bẻ gãy ở chỗ thái. Hạt hình bầu dục, dẹt như hạt đậu đen, mặt ngoài nhẵn, màu đen nâu. Thịt quả có vị đắng, hạt khi nhai có mùi tanh. Lá hòe có thể dùng tươi.
Cây hoa hòe mua ở đâu uy tín chất lượng ?
Địa chỉ: Ngách 68/45, ngõ 68, đường Nguyễn Văn Linh, phường Long Biên, thành phố Hà Nội.
- Quý khách xin vui lòng liên hệ với Cây cảnh Hải Đăng để được các chuyên viên của chúng tôi tư vấn lựa chọn sản phẩm cây hoa hòe phù hợp.
- Chúng tôi sẽ chụp ảnh sản phẩm cho quý khách nếu có yêu cầu.
- Chúng tôi sẽ kiểm tra kỹ hàng hóa đảm bảo chất lượng và đúng quy cách trước khi giao.
- Quý khách ở xa vui lòng tiến hành chuyển khoản trước hoặc đặt cọc trước. Nếu quý khách ở nội thành có thể áp dụng ship nhanh với chi phí 50k một lần ship.