Bắp cải chồn hôi phương Tây – Đẹp nhưng bốc mùi.
Lần cập nhật nội dung gần nhất: 29/12/2020.
Tên thường gọi | Bắp cải chồn hôi phương Tây |
Tên gọi khác trong Tiếng Việt | Đang tìm hiểu |
Tên Tiếng Anh | Western skunk cabbage ( bắp cải chồn hôi phương Tây, Mỹ ), yellow skunk cabbage ( bắp cải chồn hôi vàng, Anh ), American skunk cabbage ( bắp cải chồn hôi Mỹ, Anh và Ireland ), swamp lantern |
Tên gọi khác tại một số quốc gia, lãnh thổ, khu vực, dân tộc, bộ lạc, … | |
čeština ( tiếng Séc ): kapsovec americký Cymraeg ( tiếng xứ Wales ): Pidyn-y-gog Americanaidd dansk ( tiếng Đan Mạch ): Gul kæmpekalla Deutsch ( tiếng Đức ): Gelbe Scheincalla; Gelbe Scheinkalla eesti ( tiếng Estonia ): Ameerika kevadvõhk فارسی ( tiếng Ba Tư ): چراغ مرداب غربی suomi ( tiếng Phần Lan ): keltamajavankaali français ( tiếng Pháp ): Lysichiton américain עברית ( tiếng Hebrew ): כרוב בואש מערבי magyar ( tiếng Hungary ): Sárga lápbuzogány lietuvių kalba ( tiếng Litva ): Amerikinis lizichitonas latviešu valoda ( tiếng Latvia ): Amerikas lizihitons norsk bokmål ( tiếng Na Uy – ngôn ngữ viết bokmål ): Skunkkala Nederlands ( tiếng Hà Lan ): Moeraslantaarn polski ( tiếng Ba Lan ): Tulejnik amerykański русский ( tiếng Nga ): Лизихитон американский svenska ( tiếng Thụy Điển ): Gul skunkkalla 中文 ( Trung văn ): 黃花水芭蕉 | |
Danh pháp khoa học ( hiện tại ) | Lysichiton americanus Hultén & H.St.John |
Danh pháp đồng nghĩa | Không có danh pháp đồng nghĩa cho cái tên trên |
Bộ thực vật | Trạch tả ( Alismatales ) |
Họ thực vật | Ráy ( Araceae ) |
Chi thực vật | Lysichiton |
L. americanus được tìm thấy tại các khu vực đầm lầy và các khu rừng ẩm ướt, dọc theo các dòng suối và một số khu vực ẩm ướt khác của Tây Bắc Thái Bình Dương. Cái tên “skunk cabbage” ( “bắp cải chồn hôi” ) liên hệ mật thiết đến chất hôi khó chịu được tiết ra bởi tuyến hậu môn của loài chồn hôi, thứ mùi tỏa ra mạnh mẽ khi hoa nở. Mùi này sẽ thấm vào khu vực xung quanh nơi cây mọc, và có thể được phát hiện ngay cả trong các mẫu đã khô, cũ. Mùi đặc biệt thu hút ruồi nhặng và bọ cánh cứng đến thụ phấn.
Mặc dù có tên giống nhau và mùi cũng tương tự nhau, nhưng loài cây này lại rất dễ phân biệt với bắp cải chồn hôi phương Đông Symplocarpus foetidus Salisb., một loài khác thuộc họ Ráy được tìm thấy ở miền đông Bắc Mỹ.
A. Đặc điểm bắp cải chồn hôi phương Tây
Phần trên mặt đất của L. americanus phát triển từ căn hành ( rhizome ) dài khoảng 30 cm hoặc hơn với đường kính lên tới 2,5 – 5 cm. Các lá tuy có cuống ngắn nhưng lại là loại lá to nhất so với bất kỳ loài thực vật bản địa nào trong khu vực, dài từ 30 – 150 cm và rộng 10 – 70 cm khi trưởng thành. Mo hoa lớn, rộng 7 – 12 cm, màu vàng sáng hoặc xanh lục hơi vàng ở đỉnh cuống dài 30 – 50 cm. Được biết đây là một trong những loài hoa nở đầu tiên vào cuối đông hoặc đầu xuân. Không giống như chi Symplocarpus ( bao gồm S. foetidus, bắp cải chồn hôi phương Đông ), hoa của các loài trong chi Lysichiton không có khả năng sinh nhiệt, mặc dù điều này được cho là phổ biến và không chính xác.
B. Phân bố
L. americanus được phát hiện từ đảo Kodiak và Cook Inlet, miền Nam Alaska về phía nam qua Columbia thuộc Anh ( British Columbia ), Washington, Oregon và Bắc California đến tận phía nam của quận Santa Cruz. Các quần thể biệt lập cũng được tìm thấy ở phía đông bắc Washington, bắc Idaho, Montana và Wyoming.
Loài cây này được đưa vào trồng ở Anh vào năm 1901 và nghiễm nhiên trở thành loài bản địa không chính thức tại các vùng đầm lầy ở Anh và Ireland, điển hình ở Hampshire và Surrey, trong đó có RHS Garden Wisley, ngoài ra cũng thấy ở phía bắc và phía tây của Vương quốc Anh. Năm 2016, L. americanus được Liên minh Châu Âu phân loại là loài thực vật xâm lấn không phải là loài bản địa ( non-native species ).
C. Sử dụng
Trong khi một số người coi L. americanus là loài cỏ dại không hơn không kém, thì rễ của cây lại là thức ăn cho gấu; chúng sẽ tìm ăn phần này sau khi ngủ đông tương tự như cách chúng ta sử dụng thuốc nhuận tràng ( laxative ) hoặc thuốc tẩy ( cathartic ). Lá rất hay bị nai gặm qua.
L. americanus cũng được người dân bản địa dùng làm thuốc chữa bỏng và vết thương, làm thực phẩm trong thời kỳ đói kém bằng cách hâm nóng lá và ăn. Lá có vị hơi cay nhưng cũng không đến nỗi khó ăn. L. americanus có chứa các tinh thể Canxi oxalat, gây ngứa và nóng rát mạnh trong miệng và cổ họng, thậm chí có thể gây kích ứng ruột và tử vong nếu tiêu thụ với số lượng lớn.