Các loài hoa hiếm và đẹp nhất trên thế giới xung quanh ta mà bạn chưa biết. Bài viết không mang tính chất so sánh mà chỉ điểm tên các loài hoa xứng đáng có mặt trong danh sách này. Vậy còn chần chừ gì nữa, kéo xuống tìm hiểu các loài hoa hiếm và đẹp ngay thôi.
Lần cập nhật nội dung gần nhất: 10/1/2021.
1. Gibraltar Campion
Silene tomentosa Otth hay Gibraltar campion, là một loài thực vật có hoa rất hiếm thuộc chi Silene trong họ Cẩm chướng Caryophyllaceae; loài đặc hữu của Gibraltar – vùng lãnh thổ hải ngoại thuộc Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland, nằm gần cực Nam bán đảo Iberia, bên trên eo biển Gibraltar, giáp Tây Ban Nha ở phía Bắc. Về đặc điểm, S. tomentosa là cây thân gỗ lâu năm cao khoảng 40 cm, với những bông hoa có hai thùy ( bilobed ) từ hồng đến tím nhạt.
Trái với ý kiến của cộng đồng khoa học bên ngoài Gibraltar khi nghĩ rằng S. tomentosa đã tuyệt chủng, Hội nghiên cứu chim và lịch sử tự nhiên Gibraltar ( Gibraltar Ornithological & Natural History Society – GONHS ) vẫn đề cập đến sự tồn tại của loài vào năm 1985, phải mãi đến năm 1992 thì họ mới đồng thuận với ý kiến trên của các nhà khoa học rằng S. tomentosa đã thật sự tuyệt chủng.
Sau 2 năm, tức vào năm 1994, người ta đã vô tình phát hiện ra một Gibraltar campion đang phát triển trong Khu bảo tồn thiên nhiên Gibraltar. Sau lần phát hiện lại này, S. tomentosa được nhân giống tại Ngân hàng hạt giống thiên niên kỷ ( Millennium Seed Bank – MSP ) và mẫu vật của loài cây này được đem về cũng như lưu giữ tại Vườn bách thảo hoàng gia, Kew ở London.
Vì là loài cực hiếm, Silene tomentosa được pháp luật Gibraltar bảo vệ theo Đạo luật Bảo vệ Thiên nhiên, năm 1991.
2. Các loài hoa hiếm và đẹp – Hoa mỏ vẹt
Lotus berthelotii Lowe ex Masf là một loài thực vật có hoa, sống lâu năm và là loài đặc hữu của Quần đảo Canary, nằm trong chi Lotus thuộc họ Đậu Fabaceae. Loài này được Masf. miêu tả khoa học đầu tiên. Các tên phổ biến khác của loài được biết tới như lotus vine flower, parrot ( parrot’s ) beak ( hoa mỏ vẹt ), pelican beak ( mỏ bồ nông ) hay coral gem.
Tuy được nhân giống rộng rãi để làm cảnh nhưng ngoài tự nhiên L. berthelotii được cho là đã tuyệt chủng hoặc tồn tại với số lượng rất ít. Năm 1884, người ta đã phải xếp L. berthelotii vào loại “cực kỳ hiếm” và có lẽ sở thích chơi cây cảnh đã gián tiếp đẩy nhanh sự suy giảm về mặt quần thể của loài cây này.
Theo tìm hiểu, những bông hoa của L. berthelotii và một số loài khác thuộc Đảo Canary dường như đã biến đổi về mặt hình thái để thích nghi với việc thụ phấn nhờ chim ( bird pollination ). Đã từng có thời điểm người ta cho rằng các loài thụ phấn ban đầu của các loài cây này ( và các chi khác như Isoplexis và Canarina ) là một số loài chim hút mật ( sunbirds ) thuộc họ Nectariniidae vốn đã tuyệt chủng trên quần đảo Canary, vốn để lý giải vì sao chúng được coi là các loài cây quý và có nguy cơ tuyệt chủng ( Vogel 1954; Vogel et al. 1984; et al. 2004 ). Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu gần đây đã chỉ ra rằng những cây này được thụ phấn bởi những chú chim viếng thăm hoa không có sự chuyên hóa, đặc biệt là loài Canary Islands chiffchaf Phylloscopus canariensis Hartwig – chim chích lá quần đảo Canary, Tây Ban Nha, và thực tế cho thấy một số cây đã thích nghi cực tốt đối với sự thụ phấn không thường xuyên của những chú chim này, chẳng hạn như thời gian tồn tại của hoa được kéo dài.
3. Hoa dâm bụt Hawaii ( Hawaiian hibiscus hoặc kokiʻo )
Hoa dâm bụt Hawaii thực chất là bảy loài dâm bụt có nguồn gốc chính từ đảo Hawaii với những tên gọi và đặc trưng riêng. Dâm bụt hoa vàng là hoa của tiểu bang Hawaii ( Hawaii’s state flower ). Hầu hết dâm bụt được trồng làm cảnh ở quần đảo Hawaii là dâm bụt Trung Quốc ( Hibiscus rosa-sinensis L. ) và nhiều giống lai của loài, nhưng không vì thế mà loài Hibiscus arnottianus bản địa lại không được trọng dụng.
Sau đây là bảy loài hoa dâm bụt bản địa đẹp và hiếm của Hawaii cho bạn đọc tham khảo.
♥♥♥♥ Hibiscus arnottianus A.Gray; tên bản địa kokiʻo keʻokeʻo ( “kokiʻo that is white like the shine of silver” hay “kokiʻo trắng như ánh bạc” ) là loài dâm bụt đặc hữu có hoa màu trắng. Với ba phân loài khác được công nhận là:
– H. arnottianus ssp. arnottianus được tìm thấy trên dãy Waiʻanae phía tây đảo Oʻahu;
– H. a. ssp. immaculatus rất hiếm ( được liệt vào danh sách có nguy cơ tuyệt chủng ) được tìm thấy trên Molokai – một hòn đảo thuộc quần đảo Hawaii; người ta nghi vấn rằng chỉ còn chục cá thể của H. a. ssp. imaculatus là tồn tại ngoài tự nhiên trong các khu rừng mưa và ẩm thấp của Hawaii;
– H. a. ssp. Punaluuensis được phát hiện trên dãy Koʻolau thuộc đảo Oʻahu.
H. arnottianus được cho là có mối quan hệ họ hàng gần với H. waimeae vì hai loài này là một trong số rất ít thành viên của chi có hoa thơm. Về ứng dụng, H. arnottianus đôi khi được trồng làm cảnh hoặc lai với H. rosa-sinensis. Trong ngôn ngữ Hawaii, dâm bụt trắng được gọi là aloalo pua.
Hibiscus brackenridgei A.Gray hay maʻo hau hele ( với maʻo ở đây để chỉ loài Gossypium tomentosum Nutt. ex Seem. ) là một loài cây bụi cao ( lên đến 10 m hoặc 33 ft ) với hoa màu vàng sáng, có liên quan chặt chẽ với H. divaricatus. Hai phân loài được công nhận là:
– H. b. ssp. brackenridgei, một loài cây bụi có xu hướng bò lan đến dạng cây mọc thẳng đứng xuất hiện phổ biến trong các khu rừng khô và vùng cây bụi thấp ở độ cao 400 – 2.600 ft so với mực nước biển trên Molokai, Lānaʻi, Maui và đảo Hawaii;
– H b. ssp. mokuleianus, được tìm thấy trên đảo Kauai và dãy Waiʻanae trên Oʻahu.
H. brackenridgei đang được coi là loài có nguy cơ tuyệt chủng bởi USFWS. Sắc hoa vàng của loài câu này được công nhận là hoa chính thức của tiểu bang Hawaii vào ngày 6 tháng 6 năm 1988. Dù bị gán mác là có nguy cơ tuyệt chủng ngay trong môi trường sống tự nhiên, song H. brackenridgei vẫn đã và đang trở thành một loại cây cảnh phổ biến tại các bãi cỏ ở Hawaii.
Hibiscus clayi O.Deg. & I.Deg. là một loài cây bụi đặc hữu hoặc cây gỗ nhỏ có hoa màu đỏ tươi, nhìn chung là tương tự như H. kokio, được tìm thấy mọc tự nhiên trên đảo Kauaʻi trong các khu rừng khô; được liệt kê là loài có nguy cơ tuyệt chủng bởi USFWS.
Hibiscus furcellatus Desr.; một loài dâm bụt có hoa màu hồng và là một loài bản địa, được tìm thấy ở các khu vực thấp và đầm lầy tại vùng Caribe, Florida, Trung và Nam Mỹ hay Hawaii, nơi em nó được gọi với các tên như ʻakiohala, ʻakiahala, hau hele và hau hele wai.
Hibiscus kokio Hillebr. hay kokiʻo hoặc kokiʻo ʻula ( “kokiʻo đỏ” ) là một loài cây bụi hoặc cây gỗ nhỏ cao 3,7 m với hoa màu đỏ đến cam ( hiếm khi vàng ). Loài đặc hữu này tuy không được liệt kê vào danh sách chính thức, nhưng dù sao vẫn là “hàng hiếm” trong tự nhiên. Hai phân loài được công nhận là:
– H. kokio ssp. kokio được tìm thấy trong các khu rừng khô đến ẩm ướt ở Kauaʻi, Oʻahu, Maui và có thể là Hawaii ở độ cao từ 70 – 800 m.
– H. k. ssp. saintjohnianus được tìm thấy ở phía tây bắc Kauaʻi ở độ cao 150 – 890 m.
Hibiscus tiliaceus L. hay hau; một loài cây bụi phổ biến ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới, đặc biệt là ở các khu vực ven biển.
Hibiscus waimeae A.Heller; hay kokiʻo keʻokeʻo hoặc kokiʻo kea ( “kokiʻo trắng như tuyết” ), vốn là loài đặc hữu của Hawaii, cao từ 6 – 10 m, với những bông hoa màu trắng tuyết ngả dần sang hồng vào buổi chiều tà. Hai phân loài được công nhận là:
– H. waimeae ssp. hannerae ( hiếm và được coi là có nguy cơ tuyệt chủng ) được tìm thấy ở các thung lũng phía tây bắc của Kauaʻi.
– H. w. ssp. waimeae xuất hiện ở hẻm núi Waimea và một số thung lũng phía tây đến phía nam trên đảo Kauaʻi. Loài này gần giống với H. arnottianus về một số đặc điểm.
4. Các loài hoa hiếm và đẹp – Quỳnh hoa
Quỳnh hoa hay hoa quỳnh, tên Tiếng anh là Dutchman’s pipe cactus ( xương rồng ống của người Hà Lan ), princess of the night ( công chúa của màn đêm ), queen of the night ( nữ hoàng của màn đêm ) ( danh pháp khoa học Epiphyllum oxypetalum (DC.) Haworth ) là một loài thực vật có hoa thuộc chi Epiphyllum trong họ Xương rồng Cactaceae. Loài này được (DC.) Haw. mô tả khoa học đầu tiên năm 1829 và là loài được trồng nhiều nhất trong chi Epiphyllum.
Quỳnh hoa rất hiếm khi nở và thường chỉ nở vào ban đêm, rồi sau đó héo tàn ngay trước khi bình minh tới. Tuy E. oxypetalum rất hay được gọi với cái tên như night-blooming cereus ( xương rồng khế nở về đêm ), nhưng về bản chất quỳnh hoa lại không có quan hệ họ hàng gần với bất kỳ loài nào trong tông Cereeae, chẳng hạn như chi Selenicereus, vốn cũng được gọi là night-blooming cereus. Nên nhớ, các loài trong chi Cereus đều nở hoa vào ban đêm và là thực vật trên cạn, còn các loài trong chi Epiphyllum thường là thực vật biểu sinh.
Ở Ấn Độ, E. oxypetalumis được gọi với cái tên là Iruludavare ( ಇರುಳುದಾವರೆ ) trong tiếng Kannada, mang nghĩa “night lotus – hoa sen đêm”. Người ta tin rằng những những ai cầu nguyện với thần linh trong khi hoa đang nở thì điều nguyện ước của họ sẽ được ứng nghiệm. Ngoài ra, em nó cũng được gọi là “Bramhakamal” ở bang Maharashtra. Hay Gulebakavali trong tiếng Tamil cổ và hoa Kadupul ở Sri Lanka ( hoa bản địa của Sri Lanka ).
Chengyu của Trung Quốc ( đặc ngữ 4 chữ ) 曇花一現 ( tán huā yī xiàn – nghĩa Hán Việt là “đám hoa nhất hiện” hay hoa chỉ nở thoáng qua, nghĩa bóng là “xuất hiện chốc lát, ngắn ngủi nhất thời” ) sử dụng chủ thể là quỳnh hoa ( tan-hua; 曇花 ) để mô tả một ai đó có khoảng khắc xuất hiện cực kì huy hoàng ấn tượng nhưng khoảng thời gian cho điều ấy lại vô cùng ngắn ngủi, vì E. oxypetalum có thể chỉ nở hoa một lần một năm trong một vài ngày.
Do đó, một người được mô tả là “曇花一現” thường được hiểu là một người thích khoe khoang hoặc bất ngờ đạt được một số thành tựu nào đó khi sử dụng chiêu trò hay đơn giản chỉ là do may mắn. Quỳnh hoa cũng có một lịch sử phong phú ở Nhật Bản, nơi em nó được gọi là 下 ( Gekka Bijin ) hoặc “Beauty under the Moon – Người đẹp dưới ánh trăng”. Ở Sri Lanka, E. oxypetalum được gọi là “Kadupul” ( කඩුපුල් ) mang nghĩa là flower from heaven – hoa từ thiên đường. Ở Indonesia, người ta gọi quỳnh hoa bằng “Wijaya Kusuma” dịch ra là “Flower of Triumph – Hoa của niềm vui chiến thắng”.
5. Phong lan ma
Dendrophylax lindeniiex (Lindl.) Benth. Rolfe, tên Việt là dạ hương lan, tên tiếng anh là ghost orchid ( phong lan ma, cũng được dùng để gọi tên loài Epipogium aphyllum Sw. ), palm polly và white frog orchid ( phong lan ếch trắng ); một loài thực vật có hoa trong họ Lan Orchidaceae. Loài này được (Lindl.) Benth. ex Rolfe mô tả khoa học đầu tiên năm 1888. Được biết phong lan ma có nguồn gốc từ Florida và Cuba.
Tính ngữ chỉ loài lindenii được đặt theo tên người phát hiện ra nó, nhà sưu tầm thực vật người Bỉ Jean Jules Linden, người đã tìm thấy loài phong lan này lần đầu tiên ở Cuba vào năm 1844. Về sau loài cũng được phát hiện thêm ở Everglades thuộc Florida. Chi Dendrophylax trước đây được gọi là Polyrrhiza.
Về mặt sinh thái học, D. lindenii là loài thực vật biểu sinh không có lá trong tông Vandeae, thuộc phân họ Epidendroideae. Rễ mọc ra từ các đốt thân rất ngắn chồng lên nhau, tạo thành một búi rễ bám trên thân cây chủ. Môi trường sống của D. lindenii là các vùng đầm lầy ẩm thấp ở tây nam Florida và các đảo Caribe như Cuba.
Khác với đa phần các loài thực vật một lá mầm khác, để thích nghi với điều kiện môi trường có độ ẩm cao, hàm lượng dinh dưỡng cũng như cường độ ánh sáng thấp, phong lan ma đã hạn chế đi sự phát triển của bộ lá ( lá tiêu biến thành vảy bắc [ scales ] ), thay vào đó là quang hợp kiểu CAM và dự trữ chất dinh dưỡng ngay tại hệ thống rễ để giảm thiểu chi phí năng lượng cho quá trình vận chuyển rễ – lá. Trên rễ xuất hiện các “dấu vết” màu xám trắng đặc trưng, thuật ngữ chuyên môn gọi chúng là pneumatodes ( từ tiếng Hy Lạp cổ đại πνεῦμα [ pneûma ] và ὁδός [ hodós ] ), được cho là có một phần chức năng giống như khí khổng, cho phép rễ khí sinh ( photosynthetic root ) thực hiện trao đổi khí thiết yếu cho quá trình hô hấp và quang hợp. Lục lạp trong những búi rễ dẹt này thực hiện gần như toàn bộ quá trình quang hợp của cây; lớp ngoài cùng của chúng là một ví dụ điển hình về căn mạc ( velamen ) trên hầu hết các loài lan biểu sinh; với chức năng hấp thụ các chất dinh dưỡng và nước, đồng thời tiếp nhận ánh sáng cho quá trình quang hợp.
D. lindenii hiện đang là loài có nguy cơ tuyệt chủng trong tự nhiên và việc nhân giống thành công được loài lan này theo tìm hiểu là cực kỳ khó khăn. Có một điều đặc biệt là trong khi hầu hết mọi nỗ lực nuôi trồng cây con thành cây trưởng thành theo phương pháp nuôi cấy vô trùng đều cho các kết quả thất bại, thì một số nhà trồng lan thực tế lại thành công; nhưng sau cùng thì tất cả vẫn chỉ dừng lại ở mức phỏng đoán. D. lindenii được liệt vào Phụ lục II của Công ước CITES và được bảo vệ hoàn toàn bởi luật pháp tiểu bang Florida, ngăn cấm các hành vi di chuyển loài ra xa khỏi khu vực tự nhiên bởi chúng đá phần sẽ chết trong vòng một năm. Trong tự nhiên, Dendrophylax lindenii mọc chủ yếu trên thân cây chính hoặc các nhánh chính lớn của cây chủ còn sống, nhất là cây na biển Annona glabra L. ( pond-apple ), hoặc đôi khi là loài Fraxinus caroliniana Mill. ( pop ash ).
Dendrophylax lindenii ra hoa vào giữa tháng Sáu và tháng Tám, thường sẽ là một đến mười bông hoa thơm nở lần lượt. Hoa sắc trắng, rộng 3 – 4 cm và dài 7 – 9 cm, tỏa hương mãnh liệt nhất vào lúc sáng sớm. D. lindenii có cánh môi ( labellum ) đặc biệt, với hai tua bên dài, xoắn nhẹ xuống dưới, giống như chân sau của một con ếch đang nhảy. Lá bắc khô xác và mỏng như giấy. Rễ của loài phong lan này được ngụy trang cực tốt trên những cây lớn đến nỗi khiến người ta tưởng rằng những bông hoa có “thần lực” lơ lửng giữa không trung, do đó mà có tên gọi là “phong lan ma“.
Trong giới trồng lan tại Mỹ, vì độ “hiếm” và độ “khó” ở mức cao nhất trong số các loài lan, việc trồng thành công phong lan ma cho đến lúc có hoa được coi là một thành công rất lớn. Việc cấm buôn bán trên thị trường càng làm nóng nhu cầu của người trồng lan. Đặc biệt là sau sự ra đời của 2 tác phẩm lớn là “Kẻ trộm hoa lan” ( The Orchid Thief ) và bộ phim Adaptation kể về niềm cuộc đời thú vị của John Laroche, một thợ săn hoa lan hiện đại.
Trên đây là tổng hợp các loài hoa hiếm và đẹp ( Phần 1 ) cho bạn đọc tham khảo. Bài viết được tham khảo từ wikipedia và các bài viết khác nên còn một số sai sót. Mong bạn đọc góp ý để shop dần hoàn thiện bài viết các loài hoa hiếm và đẹp hơn nữa trong tương lai. Chân thành cảm ơn bạn đọc.
Comments are closed.