Hoa mang hình chú vịt bay độc nhất vô nhị ở Úc không nơi nào khác có, cùng đi tìm hiểu ngay qua bài viết dưới đây.
Lần cập nhật nội dung gần nhất: 24/11/2020.
Tên thường gọi | Đang tìm hiểu |
Tên gọi khác trong Tiếng Việt | Đang tìm hiểu |
Tên Tiếng Anh | Large duck orchid ( lan vịt lớn ), flying duck orchid ( lan vịt bay ) |
Tên gọi khác tại một số quốc gia, lãnh thổ, khu vực, dân tộc, bộ lạc, … | български ( tiếng Bungaria ): Орхидея „Летяща патица“ বাংলা ( tiếng Bengal ): উড়ন্ত হাঁস অর্কিড Ελληνικά ( tiếng Hy Lạp ): Καλεάνα η μείζων français ( tiếng Pháp ): Orchidée canard volant 中文 ( Trung văn ): 飛鴨 |
Danh pháp khoa học ( hiện tại ) | Caleana major R.Br. |
Danh pháp đồng nghĩa | Caleya major (R.Br.) R.Br. |
Bộ thực vật | Măng tây ( Asparagales ) |
Họ thực vật | Lan ( Orchidaceae ) |
Chi thực vật | Caleana |
Lan vịt lớn ( large duck orchid ), phân biệt với lan vịt nhỏ ( Caleana minor R.Br.; đồng nghĩa Paracaleana minor (R.Br.) Blaxell ) là một loài thực vật có hoa thuộc họ Lan Orchidacea; được R.Br. mô tả khoa học lần đầu tiên vào năm 1810; một loại lan nhỏ được tìm thấy ở miền đông và miền nam Australia.
Hoa có hình dáng đặc biệt, khiến người ta dễ dàng liên tưởng đến một chú vịt đang bay. Qua tìm hiểu, hoa của lan vịt lớn là một chất dẫn dụ côn trùng, chẳng hạn như hấp dẫn con đực thuộc phân bộ Ong cắn lá Symphyta đến thụ phấn theo kiểu thụ tinh không giao hợp ( pseudocopulation ). Năm 1986, loài phong lan này được vinh dự xuất hiện trên tem bưu chính của Úc.
Bức ảnh chụp bông hoa của lan vịt lớn mà bạn nhìn phía trên thực chất đã được phóng to. Còn trong thực tế, loài hoa này rất khó nhận thấy trong tự nhiên do nó có kích thước vô cùng nhỏ. Đã có rất nhiều nhà sưu tầm cất công nuôi dưỡng lan “vịt” nhưng hầu hết đều thất bại bởi vì hoa kiên quyết “ từ chối” tồn tại khi môi trường sống bị thay đổi.
A. Sơ lược về chi Caleana
Về chi Caleana, hay duck orchid ( lan vịt ), là một chi thực vật có hoa thuộc họ Lan Orchidoideae; được tìm thấy chủ yếu ở Úc và New Zealand. Đa số các loài ở Úc được tìm thấy ở tất cả các tiểu bang nhưng chưa thấy có báo cáo ghi nhận sự xuất hiện ở Lãnh thổ phía Bắc ( Northern Territory ). Duck orchid ( lan vịt ) có một lá duy nhất và một hoặc một vài bông hoa màu xám xịt, rất bé và không dễ quan sát ngoài tự nhiên. Hầu hết các loài trong chi được tìm thấy ở Tây Úc; ngoại lệ với C. major được phát hiện ở miền đông và C. minor không chỉ ở miền đông mà còn xuất hiện ở New Zealand. Hoa lan trong chi này cũng như hoa lan búa ( chi Drakaea ) được thụ phấn bởi ong bắp cày đực họ Thynnidae.
Về đặc điểm, các loại lan trong chi Caleana đều là cây thân thảo, sống trên cạn, sớm rụng ( deciduous ), sinh trưởng kiểu cộng trụ ( sympodial ) với một vài rễ khỏe, khó nhìn thấy ( inconspicuous ). Lá đơn, phiến hẹp đến hình trứng dài 10 – 40 mm; mọc gần gốc trong mùa sinh trưởng và khô héo vào cuối mùa hoa; có xu hướng cuộn theo chiều dọc và thường xuất hiện các vệt màu tím. Thân mang hoa ( flowering stem ) mảnh, màu nâu sẫm và có thể mang từ một đến vài hoa cùng gốc; dài 5 – 20 mm; với mỗi hoa có một lá bắc nhỏ.
Không giống như đa phần các loài lan khác, hoa của chi Caleana thường không theo xu hướng lộn ngược ( resupination ) và nhẵn. Lá đài lưng ( dorsal sepal ) và hai lá đài cạnh ( lateral sepal ) có kích thước tương tự nhau với phiến dài hẹp, đầu nhọn. Lá đài lưng hướng xuống dưới và ôm sát vào trụ nhị – nhụy ( column ) hay đơn giản là trụ ( khi nhị hoa và nhụy hoa hợp thành một cơ quan duy nhất ). Lá đài cạnh và 2 cánh hoa thường mọc chếch xuống dưới và hướng sang bên. Lá đài lưng và các cánh hoa được gắn vào đế của trụ nơi thông trực tiếp với bầu ( ovary ).
Như thường lệ với các loài lan, một cánh hoa đặc biệt đã biến đổi để hấp dẫn côn trùng được gọi là cánh môi ( labellum ). Nhưng với duck orchid ( lan vịt ) thì thì cánh môi này rất khác, khi gắn vào phần còn lại của hoa bằng một “cuống” nhạy được “uốn” cong sao cho cánh môi này được giữ phía trên bông hoa ở vị trí côn trùng “đậu”. Thực tế, “cuống” này sẽ hạ xuống dưới sức nặng của một con ong bắp cày đang thụ phấn. Trụ có cánh rộng và khi chạm vào cánh môi, nó sẽ “vô tình” tạo ra một “buồng giam” nhân tạo nhốt con côn trùng lại “ép buộc” chúng phải tiếp xúc gần hơn với cơ quan sinh sản của trụ. Cánh môi có dạng bình thót cổ ( hay dùng trong phòng thí nghiệm ) ( flask-shaped ) với đầu hẹp được phủ bởi các thể sần ( calli ) hoặc các tuyến ( gland ) nhỏ có màu đen, đôi khi nâu hoặc hơi xanh. Ở một số loài, các thể sần này có thể chiếm phần lớn, hoặc thậm chí là toàn bộ cánh môi ( như ở P. minor ). Các tuyến trên cánh môi tỏa ra pheromon hấp dẫn ong bắp cày đực. Ra hoa diễn ra vào mùa xuân ở hầu hết các loài.
B. Đặc điểm hoa mang hình chú vịt bay
C. major thuộc dạng thân thảo lâu năm, phát triển cao từ 200 – 400 mm. Lá đơn, màu đỏ, phiến hình mác hẹp, dài từ 40 – 130 mm, rộng khoảng 4 – 8 mm, thường có đốm nổi lên ở gốc. Có tới 4 – 5 hoa màu nâu đỏ, sáng, dài 20 – 25 mm và rộng khoảng 6 – 7 mm ( trong một số ít trường hợp, hoa có thể có màu xanh lục với những đốm đen thẫm ). Lá đài và cánh hoa dài 12 – 15 mm với đầu nhọn. Trụ có cánh rộng với lá đài lưng và các cánh hoa gần như dính nhau. Lá đài cạnh quay ngược lại giống như “cánh vịt” phía sau bông hoa. Cánh môi dài 6 – 8 mm và rộng 5 – 6 mm được biến đổi trông rất giống đầu của một chú vịt. Cây ra hoa từ tháng 9 đến tháng 1 năm sau.
C. Phân loại và đặt tên
C. major được mô tả chính thức lần đầu tiên vào năm 1810 bởi Robert Brown từ một mẫu vật mà ông thu thập được tại Cảng Jackson, Bennelong Point vào tháng 9, năm 1803. Mô tả được công bố trên bản thảo hệ thực vật Prodromus Florae Novae Hollandiae et Insulae Van Diemen. Tên chi Caleana được sử dụng để vinh danh George Caley, một nhà sưu tầm thực vật và tính ngữ chỉ loài major bắt nguồn một từ Latin mang nghĩa là “large” ( lớn ) hoặc “great” ( thú vị ).
D. Phân bố của loài hoa mang hình chú vịt bay
Lan vịt lớn có thấy xuất hiện ở Queensland, New South Wales, Victoria, Nam Úc và Tasmania; thường lẫn trong các cây bụi ở ven biển hoặc đầm lầy hay các bãi cây thạch nam. Chủ yếu nhất vẫn là gần bờ biển, đôi khi là ở các vùng cao hơn chút.