Trám đen hay cà na, tên tiếng Anh là Chinese black olive (danh pháp khoa học là Canarium pimela K.D.Koenig; đồng nghĩa: Canarium nigrum (Lour.) Engl.) là một loài thực vật có hoa thuộc họ Trám Burseraceae.


Mô tả cây trám đen
Cây trám – Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi (đã sửa chính tả):
Cây cao trung bình. Lá dài 20 – 25cm, kép hình lông chim, gồm 4 đôi lá chét. Hoa mọc thành chuỳ mang những nhánh gồm nhiều chùm tán 6 – 10 hoa. Quả hình trứng màu tím đen sẫm, dài 3 – 4cm, rộng 2cm, hạt cứng có 3 ngăn. Cây này được trồng ở nhiều nơi trong nước ta để lấy quả ăn và lấy nhựa trám. Mùa quả vào tháng 10 – 12.
Thông tin thêm
1. Phân bố và sinh thái
Trám đen phân bố chủ yếu ở các vùng nhiệt đới Đông Nam Á, đặc biệt là tại Việt Nam, Lào (chủ yếu ở Xiêng Khoảng, Hủa Phăn và Viêng Chăn), Campuchia và miền nam Trung Quốc. Ở Việt Nam, trám đen thường mọc tự nhiên hoặc được trồng ở các tỉnh trung du và miền núi phía Bắc như Phú Thọ, Tuyên Quang, Yên Bái, Bắc Kạn, và một số vùng thuộc Tây Bắc. Cây mọc nhiều trong các khu rừng nguyên sinh và thứ sinh ở độ cao dưới 500 mét, thường mọc lẫn với các cây khác như gội nếp (Aglaia spectabilis), cồng sữa Bắc Bộ (Eberhardtia tonkinensis), lim xanh (Erythrophleum fordii), bứa (Garcinia spp.), ngát (Gironniera subaequalis), … Cây ưa sáng và sinh trưởng nhanh, ưa đất ẩm sâu và địa hình dốc vừa phải; khả năng tái sinh tự nhiên tốt dưới độ che phủ của tán rừng khoảng 30 – 40% (Hoang Van Sam et al.; 2004).
2. Thành phần hoá học (sưu tầm)
Tran D Thang cùng cộng sự (2014) đã báo cáo về thành phần hóa thực vật trong tinh dầu từ lá, vỏ thân và nhựa của cây trám lá nhỏ (Canarium parvum Leenh.) và cây trám đen (Canarium tramdenanum Dai et Yakovl.) (Burseracea) trồng tại Việt Nam trên tạp chí Natural Product Research như sau:
- Các hợp chất chính trong lá của C. parvum là β-caryophyllene (18,7%), (E)-β-ocimene (12,9%), (Z)-β-ocimene (11,9%), germacrene D (8,8%) và α-humulene (8,4%) trong lá; trong thân là β-caryophyllene (30,4%), α-copaene (20,5%) và (E)-β-ocimene (7,7%). Nhựa cây chứa germacrene D (23,2%), α-amorphene (14,9%), α-copaene (9,8%) và β-elemene (8,6%).
- Lá của C. tramdenanum chứa β-caryophyllene (16,8%), α-phellandrene (15,9%), γ-elemene (13,1%) và limonene (11,8%), trong khi thân chứa limonene (25,7%), α-phellandrene (21,7%), α-pinene (12,3%) và β-caryophyllene (10,9%). Ngoài ra, δ-elemene (14,6%) và bulnesol (16,0%) là các thành phần chính có trong nhựa cây.
Báo cáo của Guo Shou-jun cùng cộng sự (2009) đăng trên tạp chí Food Science (食品科学): Tinh dầu được chiết xuất từ quả cây Trám đen bằng phương pháp chưng cất hơi nước, sau đó được phân tích bằng kỹ thuật sắc ký khí khối phổ (GC-MS) kết hợp với phần mềm tra cứu dữ liệu. Kết quả phân tích cho thấy có hơn 43 đỉnh sắc ký được tách ra, 41 hợp chất đã được xác định, chiếm 97,8% tổng lượng tinh dầu. Tỷ lệ phần trăm của các hợp chất được xác định bằng phương pháp chuẩn hóa diện tích sắc ký khí (GC area normalization). Các thành phần hóa thực vật chính (chiếm 85,88% tổng lượng tinh dầu) gồm 1-methyl-2-(1-methylethyl)-benzene; D-limonene; α-phellandrene; α-pinene; hexanoic acid; hexanal; caryophyllene; caryophyllene oxide; 1-pentanol; 1-hexanol; β-phellandrene; copaene; α-humulene; 2-pentyl-furan; nonanal; cadinene; (-)-spathulenol và decahydro-1,4a-dimethyl-7-(1-methylethylidene-[1R-(1α,4aβ,8aα)])-naphthalenol.
Báo cáo của Lại Thị Ngọc Hà cùng cộng sự (2023) đăng trên tạp chí Khoa học Nông nghiệp Việt Nam, Học viện Nông nghiệp Việt Nam:
Trong nghiên cứu này, ảnh hưởng của một số yếu tố công nghệ đến hiệu suất trích ly dầu từ thịt quả trám đen (Canarium tramdenum Dai and Yakovl.) thu hái tại Hà Tĩnh đã được xác định. Dầu trong thịt quả trám đen được trích ly bằng phương pháp trích ly động với dung môi hữu cơ. Kết quả cho thấy, lượng dầu cao nhất thu được khi tiến hành trích ly bằng dung môi ethyl acetate, tỷ lệ nguyên liệu/dung môi 1/10 (w/v), nhiệt độ trích ly 40oC, trích ly hai lần (30 phút lần thứ nhất và 15 phút lần thứ 2), hiệu suất trích ly tương ứng đạt 99,56 ± 1,70%. Dầu thô thu được có trị số axit và trị số peroxide lần lượt là 3,10 ± 0,34mg KOH/g và 0,45 ± 0,09meq O2/kg, đạt tiêu chuẩn TCVN 7597:2018 quy định cho dầu thực vật. Các axit béo chủ đạo trong dầu bao gồm axit oleic, axit palmitic và axit linoleic. Đáng lưu ý là dầu thịt quả trám đen có hàm lượng polyphenol và khả năng kháng oxy hóa cao, đạt tương ứng 160,91 ± 4,14mg đương lượng axit gallic/kg và 2,91 ± 0,06mmol đương lượng trolox/kg, mở ra nhiều ứng dụng cho loại dầu này trong công nghiệp thực phẩm với vai trò là chất bảo quản tự nhiên chống lại quá trình oxy hóa lipid.
Công dụng của trám đen
Trám đen được dùng ở Việt Nam như thực phẩm và để chữa bệnh. Phần dùng làm thực phẩm thường là thịt quả chín, dùng để om, kho thịt, kho cá hoặc làm ô mai. Quả và lá được dùng chống tiêu chảy và thấp khớp (Hoang Van Sam et al.; 2004).
Quả trám đen đã được dùng làm thực phăm rất lâu đời ở Việt Nam. Quả trám “ỏm” là món ăn quen thuộc trong các bữa cơm của các gia đình ở miền Bắc trước kia. Từ quả trám có thế chế biến thành nhiều món ăn ngon như: trám kho cá, trám nhồi thịt … Quả trám còn được dùng để làm ô mai mặn, ngọt được nhiều người ưa thích. Nhân hạt trám chứa nhiều dầu béo, có vị bùi; có thể ăn sống, ép dầu hoặc làm nhân bánh.
Quả trám còn được dùng làm thuốc vì có tác dụng giải khát, sinh tân dịch, thanh lọc, giải độc rượu. Lá có vị hơi đắng, hơi chát, tinh mát, có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, tiêu thũng, chỉ thống. Vì vậy quả trám dùng giải độc rượu, cá nóc hoặc chữa hóc xương cá. Dùng quả trám tươi giã nát, vắt lấy nước uống hoặc sắc uống. Nếu dùng ngoài, dịch nước của quả chữa da nứt nẻ do khô lạnh, lở ngứa, nhất là lở miệng không há mồm ra được, chữa sâu răng băng cách dùng quả và hạt trám đốt, tán nhỏ và bôi vào chân răng. Rễ cây trám dùng chữa phong thấp, đau lưng, gối tê liệt cử động. Lá trị cảm mạo, viêm đường hô hấp trên, viêm phối, phù thũng, ghẻ lở. Ớ Trung Quốc (tỉnh Vân Nam) dùng rễ trám trị đau dạ dày, bỏng lửa, lá dùng trị xuất huyết tử cung, ban độc; quả trị nội thương xuất huyết, ho; vỏ rễ dùng trị nội thương thổ huyết.
Nhựa trám đen có thể dùng thắp sáng hoặc dùng trong công nghệ véc ni sơn. Nhưng nhựa trám đen thường ít và chóng khô đặc hơn trám trắng, nên ít khi khai thác nhựa từ cây trám đen.
Gỗ trám đẹn nhẹ, mềm, màu xám trắng, giác lõi không phân biệt, có thể dùng làm nhà, đóng đồ, làm gỗ dán lạng, bút chì, diêm, bột giấy. Trám là cây đa mục đích được chọn làm cây trồng trong các vườn rừng, trại rừng và các khu rừng phòng hộ đầu nguồn.
Bảo tồn và phát triển cây trám đen
Mặc dù có giá trị cao, cây trám đen đang đối mặt với nguy cơ suy giảm do khai thác quá mức và mất môi trường sống. Một số biện pháp bảo tồn đang được triển khai:
- Trồng rừng trám: Khuyến khích người dân trồng trám xen canh với cây nông nghiệp để tăng thu nhập và bảo vệ đất.
- Nghiên cứu giống: Các viện nghiên cứu đang phát triển giống trám đen có năng suất cao, kháng bệnh tốt.
- Xây dựng thương hiệu: Một số địa phương đã xây dựng thương hiệu “Trám đen Phú Thọ”, “Trám đen Tuyên Quang” để quảng bá sản phẩm ra thị trường trong và ngoài nước.
Nhiều dự án phát triển cây trám đen đã được thực hiện ở Nghệ An, Lạng Sơn, Bắc Kạn, Lai Châu, … Tại Hòa Bình, trám đen là một trong ba loại cây đa mục tiêu được chọn trồng nhằm thúc đẩy phục hồi rừng ở Campuchia và Việt Nam trong khuôn khổ dự án của Tổ chức hợp tác lâm nghiệp châu Á (Asian Forest Cooperation Organization, 2020).
Địa chỉ bán cây giống trám đen uy tín chất lượng ?
Địa chỉ: Ngách 68/45, ngõ 68, đường Nguyễn Văn Linh, phường Long Biên, thành phố Hà Nội.
- Quý khách xin vui lòng liên hệ với Cây cảnh Hải Đăng để được các chuyên viên của chúng tôi tư vấn lựa chọn sản phẩm cây giống trám đen phù hợp.
- Chúng tôi sẽ chụp ảnh sản phẩm cho quý khách nếu có yêu cầu.
- Chúng tôi sẽ kiểm tra kỹ hàng hóa đảm bảo chất lượng và đúng quy cách trước khi giao.
- Quý khách ở xa vui lòng tiến hành chuyển khoản trước hoặc đặt cọc trước. Nếu quý khách ở nội thành có thể áp dụng ship nhanh với chi phí 50k một lần ship.
Tài liệu tham khảo
- Canarium pimela – Wikipedia tiếng Anh.
- Cây trám – Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi.
- Hoang Van Sam, Khamseng Nanthavong và P.J.A. Kessler (2004). “Trees of Laos and Vietnam: a field guide to 100 economically or ecologically important species”. Blumea: Journal of Plant Taxonomy and Plant Geography. 49: 201-349.
- Tran D Thang, Do N Dai, Ngo X Luong, Isiaka A Ogunwande (2014). “Constituents of essential oils from the leaves, stem barks and resins of Canarium parvum Leen., and Canarium tramdenanum Dai et Yakovl. (Burseracea) grown in Vietnam”. Natural product research. 28(7): 461-466.
- Guo Shou-jun et al. (2009). “GC-MS analysis of chemical constituents of volatile oil from fruits of Canarium pimela Leenh.”. Food Science (食品科学). 30(12): 251-253.
- Lại Thị Ngọc Hà et al. (2023). “Ảnh hưởng của một số yếu tố công nghệ đến quá trình trích ly dầu từ thịt quả trám đen (Canarium tramdenum Dai and Yakovl.) Hương Sơn (Hà Tĩnh)”. Tạp chí Khoa học Nông nghiệp Việt Nam. 21(1): 104-113.
- Tìm hiểu về cây trám đen – Tài liệu sinh học.
- Asian Forest Cooperation Organization (2020). “Significant steps made towards restoring and rehabilitating forests in Cambodia & Viet Nam”. AFoCO.