Cây sala hay ngọc kỳ lân, đầu lân, tên tiếng Anh là sal tree, sāla, shala, sakhua, sarai (danh pháp khoa học là Shorea robusta C.F.Gaertn.; đồng nghĩa: Dryobalanops robusta (C.F.Gaertn.) Oken), là một loài thực vật có hoa thuộc họ Hai cánh Dipterocarpaceae. Cây này có nguồn gốc từ Ấn Độ, Bangladesh, Nepal, Tây Tạng và khắp các vùng Himalaya.




Mô tả cây sala
Sala có tốc độ phát triển từ trung bình đến chậm và có thể đạt chiều cao từ 30 – 35 mét, đường kính thân lên tới 2 – 2,5 m. lá dài từ 10 – 25 cm và rộng 5 – 15 cm. Tại những khu vực ẩm ướt, cây xanh quanh năm; trong khi ở những vùng khô, cây rụng gần hết lá vào giữa tháng Hai đến tháng Tư, rồi lại ra lá mới vào tháng Tư và tháng Năm.
Thông tin thêm
1. Phân bố của sa la
Bản địa của sala là khu vực tiểu lục địa Ấn Độ, phân bố ở phía nam dãy Himalaya, từ Myanmar ở phía đông đến Nepal, Ấn Độ và Bangladesh. Ở Ấn Độ, cây trải dài từ Chhattisgarh, Assam, Bengal, Odisha và Jharkhand về phía tây đến đồi Shivalik ở Haryana, phía đông sông Yamuna. Phạm vi phân bố cũng kéo dài qua dãy Ghat Đông (Eastern Ghats) và đến phía đông Vindhya và Satpura của miền trung Ấn Độ.
Ở Nepal, cây được tìm thấy chủ yếu ở vùng Terai từ đông sang tây, đặc biệt là ở đồi Sivalik (dãy Churia) ở vùng khí hậu cận nhiệt đới. Cũng thấy cây xuất hiện nhiều tại các khu vực được quy hoạch phục vụ mục đích bảo tồn, chẳng hạn như Vườn quốc gia Chitwan, Vườn quốc gia Bardia và Vườn quốc gia Shuklaphanta.
2. Ấn Độ giáo
Trong truyền thống Hindu giáo, cây sala là cây thiêng. Cây này cũng gắn liền với vị thần Vishnu (tiếng Phạn: विष्णु).
Người tu hành Kì Na giáo (Jainism) cho rằng tirthankara đời thứ 24 là Mahavira đã đạt đến sự giác ngộ dưới gốc một cây sala. Một số nền văn hóa ở Bengal còn thấy thờ Sarna Burhi, một nữ thần gắn liền với những khu rừng sala thiêng (Porteous, Alexander; The Forest in Folklore and Mythology; 2012).
Một yếu tố chạm khắc nghệ thuật cổ được coi là tiêu chuẩn trong các tác phẩm điêu khắc của Ấn Độ giáo bắt nguồn từ một yakshini đứng dưới gốc cây, tay chạm vào nhánh cây mang hoa, biểu tượng cho sự sinh sản và phồn thịnh (Buddhistische Bilderwelt: Hans Wolfgang Schumann, Ein ikonographisches Handbuch des Mahayana- und Tantrayana-Buddhismus. Eugen Diederichs Verlag. Cologne). Yếu tố chạm khắc lâu đời này đã xuất hiện trong nhiều kiểu kiến trúc đền thờ Ấn Độ với tên gọi là salabhanjika (tiếng Phạn: शालभञ्जिका) hay “thiếu nữ dưới gốc cây sala”, dù không rõ liệu đó là cây sala hay là cây asoka (Saraca asoca) (Eckard Schleberger, Die indische Götterwelt. Gestalt, Ausdruck und Sinnbild Eugen Diederich Verlag. Cologne).
3. Phật giáo
Tương truyền trong Phật giáo, Hoàng hậu Māyā xứ Sakya, theo phong tục, người phải trở về quê nhà để chuẩn bị cho việc sinh nở, trên đường trở về quê hương Koliya, đoàn rước kiệu đi qua một khu vườn gọi là Lâm-tỳ-ni (Lumbini). Khu vườn này gần vương quốc Nepal, dưới chân dãy núi Himalaya. Lâm Tỳ Ni có nhiều cây sala che bóng mát tỏa hương thơm ngát, chim chóc và bướm ong bay lượn làm hoàng hậu thích thú. Bởi nơi này thuận lợi cho việc nghỉ ngơi, hoàng hậu đã ra lệnh cho mọi người dừng chân. Khi hoàng hậu nghỉ dưới một gốc cây sala, bà chuyển dạ và hạ sinh Thái tử Tất-đạt-đa trong khi một tay đang nắm lấy một nhánh sala. Người sau này đã đạt đến sự giác ngộ dưới gốc cây Bồ-đề và trở thành Đức Phật.

Đối với Phật giáo, việc ra hoa của cây sala trong khoảng thời gian vô cùng ngắn ngủi được coi như một lời nhắc nhở người đời về sự phù du của danh vọng và quyền lực, rằng không có gì trên đời là vĩnh cửu, là mãi mãi, rất giống với câu thành ngữ trong tiếng Latinh “sic transit gloria mundi“; mang nghĩa “vinh quang thế gian rồi cũng qua đi“.
Cây bị nhầm lẫn với sa la
Ở châu Á, cây sala thường bị nhầm lẫn với cây đầu lân (Couroupita guianensis), một loài cây từ vùng nhiệt đới Nam Mỹ được người Anh du nhập vào châu Á vào thế kỷ 19. Kể từ đó, cây đầu lân đã được trồng tại các địa điểm tôn giáo Phật giáo và Ấn Độ giáo ở châu Á với niềm tin rằng nó là cây trong kinh Phật. Ở Sri Lanka, Thái Lan và các quốc gia theo Phật giáo Nguyên thủy khác, cây này cũng được trồng nhiều tại các tu viện Phật giáo và các địa điểm tôn giáo khác. Một ví dụ điển hình cho việc cây đầu lân được đặt tên nhầm là “cây sala” là ở chùa Bạc (Wat Ubaosoth Ratanaram) thuộc Cung điện Hoàng gia Campuchia ở Phnôm Pênh, Campuchia.
Ở Thái Lan phần lớn người dân đều gọi cây đầu lân và sala bằng cái tên chung là sala. Ngoài ra, cây sala cũng thường bị nhầm lẫn với cây vô ưu hay asoka (Saraca asoca), thuộc chi Saraca.
Công dụng của cây sala
Cây sala không chỉ mang giá trị tâm linh sâu sắc mà còn đóng vai trò quan trọng trong nhiều lĩnh vực khác. Gỗ của cây nổi tiếng với độ chắc, bền, được tận dụng rộng rãi trong việc xây dựng chùa chiền, đóng tàu và chế tác đồ nội thất tinh xảo. Nhựa và lá của sala chứa các hoạt chất có khả năng kháng viêm, từ lâu đã được dùng trong y học cổ truyền để chữa bệnh ngoài da và hỗ trợ tiêu hóa. Không chỉ vậy, cây sala còn góp phần bảo vệ môi trường, giúp chống xói mòn đất, tạo bóng mát và trở thành mái nhà của nhiều loài động vật hoang dã quý hiếm.
Địa chỉ bán cây sala uy tín chất lượng ?
Địa chỉ: Ngách 68/45, ngõ 68, đường Nguyễn Văn Linh, Long Biên. Đối diện với Tổng công ty may 10, Hà Nội.
- Quý khách xin vui lòng liên hệ với Cây cảnh Hải Đăng để được các chuyên viên của chúng tôi tư vấn lựa chọn sản phẩm cây giống sala phù hợp.
- Chúng tôi sẽ chụp ảnh sản phẩm cho quý khách nếu có yêu cầu.
- Chúng tôi sẽ kiểm tra kỹ hàng hóa đảm bảo chất lượng và đúng quy cách trước khi giao.
- Quý khách ở xa vui lòng tiến hành chuyển khoản trước. Nếu quý khách ở nội thành có thể áp dụng ship nhanh với chi phí 30k một lần ship.