Độ hoàn thiện nội dung: 60%.
So đũa hay găng tây, me keo, keo tây, tên tiếng Anh là Manila tamarind, Madras thorn, monkeypod tree, camachile, monkeypod (danh pháp khoa học là Pithecellobium dulce (Roxb.) Benth.), là một loài thực vật có hoa thuộc họ Đậu Fabaceae.





Mô tả cây me tây
Cây me tây – Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – Tập II – Đỗ Huy Bích cùng các tác giả khác (đã sửa chính tả):
Cây to, cao 15 – 18m. Thân hình trụ, phần nhiều cành mảnh, dài, có những lỗ bì và mấu thắt. Lá kép có cuống chung mảnh, dài 1 – 1,5cm, chia 2 cuống nhỏ (bậc hai) mỗi cuống mang một đôi lá chét hình bầu dục hoặc hình lưỡi liềm, phiến lệch, dài 2 – 3cm, rộng 0,8 – 1,8cm, hai mặt nhẵn, gốc tròn, đầu tù; lá kèm biến đổi thành gai.
Cụm hoa mọc ở đầu cành hoặc kẽ lá thành chùy hẹp, dài 8 – 10cm gồm nhiều đầu; hoa màu trắng; đài có răng hình tam giác, có lông ở mặt ngoài, tràng hình chuông, có lông; nhị 30 – 50, rất mảnh; bầu có nhiều lông. Quả cong hình xoắn ốc, thắt lại giữa các hạt, cơm màu trắng đục; hạt hình bầu dục ngược, có vỏ ngoài đen bóng. Mùa hoa: tháng 11 – 1; mùa quả: tháng 3 – 5.
Thông tin thêm
1. Phân bố và sinh thái
Cây me tây – Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – Tập II – Đỗ Huy Bích cùng các tác giả khác (đã sửa chính tả):
Chi Pithecellobium Mart. có 2 loài ở Việt Nam trong đó me tây là cây nhập trồng. Me tây có nguồn gốc ở vùng Trung Mỹ; được người Bồ Đào Nha đưa vào Indonesia cách đây vài thế kỷ, còn người Tây Ban Nha lại có công đưa cây vào trồng ở Philippines … Ngày nay, me tây đã trở thành cây trồng phổ biến ở hầu hết các nước ở vùng nhiệt đới trên toàn thế giới (H. Hendro Sunarjono & R. E. Coronel, 1992).
Ở Việt Nam, chưa rõ me tây được nhập từ bao giờ, hiện được trồng chủ yếu ở các tỉnh phía nam, dọc theo các đường phố hoặc hàng rào, từ Thừa Thiên – Huế trở vào.
Me tây thuộc loại cây ưa sáng, có khả năng chịu khô hạn và sống được trên nhiều loại đất. Cây sinh trưởng phát triển tốt trong vùng có khí hậu nhiệt đới điển hình nóng và ẩm hoặc hơi khô (Ấn Độ), nhiệt độ không khí trung bình năm từ 24 đến 28oC, tối cao tuyệt đối là 45 – 46oC. Cây ra hoa quả rất nhiều, trồng được bằng hạt. Gỗ me tây thường chỉ để làm củi, lá làm thức ăn cho gia súc.
2. Thành phần hoá học
Cây me tây – Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – Tập II – Đỗ Huy Bích cùng các tác giả khác (đã sửa chính tả):
Vỏ thân me tây chứa tanin loại catechol với hàm lượng có thể đến 37%, hàm lượng này thay đổi tùy theo tuổi cây.
Thông thường vỏ chứa nước 8 – 12%; tanin 22 – 28%; phần không tanin 10 – 15%; dịch chiết aceton của vỏ chứa 3,4,7,3′,4′-pentahydroxyflavone. Vỏ còn chứa chất màu vàng và 1,5% pectin và α-spinasterol glucoside. Lá chứa protein thô 29,0%; cao chiết ether 4,4%; sợi 17,5%; N tự do 46,3%; tro 5,8%; Ca 1,14%; P 0,35%.
Một hợp chất giống insulin cũng được thông báo có mặt trong lá (The Wealth of India).
Hạt chứa 13,5% nước; 17,6% protein; chất béo 17,1%; sợi 7,8%; bột 41,4%; tro 2,0%.
Chiết hạt bằng cồn được một saponin (độ chảy 175 – 78o) với hàm lượng 2,4%; một sterol glucoside (độ chảy 276 – 78o); một hợp chất flavon (độ chảy 298 – 306o), lecithin 0,7%. Khi đem thủy phân saponin được một chất sapogenin C28H44O4 (độ chảy 217 – 8o) gọi là pithogenin có tính chất một sapogenin steroid.
Phần dầu béo chiết dược từ hạt là một chất lỏng sánh màu vàng trắng d ≈ 0,9044; nD20 1,4546; chỉ số xà phòng 185,3; chỉ số iod 80,7; chỉ số acid 1,2; chỉ số thiocyanogen 56,0; phần không xà phòng hóa 0,6%.
Thành phần acid béo gồm các acid no 24,3%; acid oleic 51,1%; acid linoleic 24.0% (The Wealth of India vol VIII, 1969, 140). Một polysaccharide cấu tạo bởi galactose và mannose với tỷ lệ phân tử 1:3 (CA. 1994, 121, 129914x)
Áo hạt chứa nước 77,9%, protein 0,7; Ca 13,0 mg; P 54 mg; sắt 1,4 mg; thiamine 222 µg; riboflavin 59µg; acid nicotinic 0,36 mg; acid ascorbic 120 mg/100g; các acid amin chủ yếu có trong áo hạt là valine 143; lysine 178; phenylalanine 41; tryptophan 26 mg/100g.
Đường có trong vỏ hạt chủ yếu là glucose, pectin (dưới dạng calci pectat) 0,96%. Hexacosanol và sterol glucoside cũng được phân lập từ áo hạt.
3. Tác dụng dược lý
Cây me tây – Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – Tập II – Đỗ Huy Bích cùng các tác giả khác (đã sửa chính tả):
Tác dụng hạ glucose huyết: Cao chiết từ lá me tây có tác dụng làm hạ glucose huyết ở động vật thí nghiệm. Lá của các cây cùng chi Pithecellobium với me tây như P. lobatum, P. saman cũng có tác dụng làm hạ glucose huyết. Hoạt chất có tác dụng được xác định là alkaloid.
Tác dung trên cơ trơn: Cao khô chiết từ vỏ thân cây me tây bằng cồn 50o có tác dụng ức chế sự co bóp của hồi tràng chuột lang cô lập.
Độc tính cấp: Cao khô chiết bằng cồn 50° từ vỏ thân cây me tây khá độc. Thử trên chuột nhắt trắng dùng đường tiêm phúc mạc, đã xác định được LD50 = 250 mg/kg.
Công dụng và liều dùng me tây
Vỏ cây me tây có vị hơi đắng, chát, tính mát và lạnh, có tác dụng thanh nhiệt, lương huyết.
Lá me tây được dùng để chữa đái tháo đường. Rễ, vỏ cây chữa sốt, sốt rét. Ngày 10 – 20g lá hoặc rễ sắc uống. Chú ý vỏ cây có độc, còn dùng để duốc cá. Cơm quả ăn được, có vị bùi và béo.
Địa chỉ bán cây giống me tây uy tín, chất lượng ?
Địa chỉ: Ngách 68/45, ngõ 68, đường Nguyễn Văn Linh, phường Long Biên, thành phố Hà Nội.
- Quý khách xin vui lòng liên hệ với Cây cảnh Hải Đăng để được các chuyên viên của chúng tôi tư vấn lựa chọn sản phẩm cây giống me tây phù hợp.
- Chúng tôi sẽ chụp ảnh sản phẩm cho quý khách nếu có yêu cầu.
- Chúng tôi sẽ kiểm tra kỹ hàng hóa đảm bảo chất lượng và đúng quy cách trước khi giao.
- Quý khách ở xa vui lòng tiến hành chuyển khoản trước hoặc đặt cọc trước. Nếu quý khách ở nội thành có thể áp dụng ship nhanh với chi phí 50k một lần ship.