Độ hoàn thiện nội dung: 60%.
Khoai tây, tên tiếng Anh là potato (danh pháp khoa học là Solanum tuberosum L.; đồng nghĩa: Larnax sylvarum subsp. novogranatensis N.W.Sawyer), là một loài thực vật có hoa thuộc họ Cà Solanaceae.
Mô tả cây khoai tây
Cây khoai tây – Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi (đã sửa chính tả):
Khoai tây là một cây sống lâu do củ với những chồi của thân ngầm. Thân thẳng cao 30 – 80cm, mang lá kép xẻ lông chim, với lá chét to nhỏ khác nhau. Hoa mọc thành xim, màu tím hay trắng. Quả mọng hình cầu, xanh nhạt hay tím nhạt, chứa rất nhiều hạt nhỏ hình thận.
Cây khoai tây – Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – Tập II – Đỗ Huy Bích cùng các tác giả khác (đã sửa chính tả):
Cây thảo, cao 30 – 50cm. Thân mềm, màu lục, nhẵn hoặc có lông tơ. Các cành ở sát mặt đất phình thành củ hình cầu hoặc hình trứng dẹt. Lá kép lông chim lẻ, mọc so le, gồm 7 – 9 lá chét không đều, hình bầu dục hoặc hình trứng, lá chét cuối to hơn, mép nguyên.
Cụm hoa mọc ở ngọn thành xim, hoa màu trắng hoặc lam nhạt; đài 5 răng hình mác hẹp, rời nhau; tràng 5 cánh mỏng hàn liền, có ống ngắn; nhị 5, bao phấn tạo thành ống bao quanh nhụy, nứt ở đỉnh; bầu nhẵn. Quả mọng, hình cầu. Mùa hoa: tháng 3 – 4.


Thông tin thêm
1. Phân bố và sinh thái
Cây khoai tây – Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi (đã sửa chính tả):
Khoai tây vốn có nguồn gốc tại những vùng núi ở Nam Mỹ, từ lâu đời được trồng ở Chile và Peru trước khi người châu Âu khám phá ra châu Mỹ. Vào cuối thế kỷ 16, khoai tây được di thực về châu Âu rồi từ đó phát triển dần đi khắp thế giới. Hiện nay ở nước ta phát triển nhiều khoai tây, chủ yếu vụ đông.
Cây khoai tây – Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – Tập II – Đỗ Huy Bích cùng các tác giả khác (đã sửa chính tả):
Khoai tây là loại cây trồng lâu đời ở Nam Mỹ, được đưa vào trồng rộng rãi ở châu Âu từ thế kỷ 16. Đến thế kỷ 19, người Pháp đưa khoai tây vào trồng ở Việt Nam.
Khoai tây thuộc loại cây sống nhiều năm, ưa khí hậu ẩm mát, nhiệt độ thích hợp cho cây sinh trưởng là 10 – 20oC. Do đó khi trồng ở Việt Nam (các tỉnh đồng bằng, trung du Bắc Bộ và Đà Lạt) phải tiến hành vào mùa đông. Các giống khoai tây trồng hiện nay thuộc loài bất thụ, ra hoa nhưng không đậu quả. Nguồn cây giống phải gây từ củ. Gần đây, có giống khoai tây trồng bằng bạt. Nơi trồng lấy hạt thường ở vùng núi cao trên 1500m, như Sa Pa (Lào Cai), Phố Bảng (Hà Giang) … Hạt giống thu được đưa về trồng và sản xuất ở vùng đồng bằng.


2. Thành phần hóa học
Cây khoai tây – Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi (đã sửa chính tả):
Trong củ khoai tây có tới 78% nước, 1% muối vô cơ. Glucid (15 – 20%) chủ yếu gồm tinh bột kèm theo một ít đường khử, saccharose và pectin. Protid thay đổi từ 1 – 2% (tùy theo giống) chủ yếu gồm các albumin, peptone axit amin và nucleoprotein. Dựa vào hiện tượng nứt khi nấu người ta phân biệt ra khoai tây tương đối giàu protid khi nấu không bị nứt và khoai tây ít protid khi nấu bị nứt. Trong loại khoai tây này tỷ lệ hợp chất nitơ/tinh bột dưới 0,12. Loại này được dùng để chế tinh bột khoai tây. Trong khoai tây còn chứa rất nhiều men: amylase, sucrase, oxidase … vitamin B1, B2, C (100g chứa 15mg vitamin C nằm chủ yếu trong lớp vỏ). Trong khoai tây chín và mới dỡ không có solanine. Nhưng trong củ khoai mà vỏ đã xanh (do để ngoài ánh sáng mặt trời) hay đã nảy mầm, tỷ lệ solanine có thể tới 0,02% do đó có thể gây ra những trường hợp ngộ độc. Khi cắt củ khoai tây để lâu ngoài trời, vết cắt bị đen nâu lại là do các vết của hợp chất polyphenol bị men polyphenol oxidase trong cây tác động lên.
Trong toàn cây khoai tây chứa chất “solanine”, một hỗn hợp glycoalkaloid mà phần genin là chất solanidine, chất α-solanine là thành phần chính chiếm tới 95%. Thủy phân sẽ cho solanidine, rhamnose, glucose và galactose. Các β và γ-solanine cũng như các α, β và γ-chaconine đi kèm thường chỉ khác α-solanin do số lượng và chất lượng các phân tử oza (??) đính vào phần genin.
Hàm lượng solanine trong cây tươi có lá rất thấp với 0,01 – 0,05%, quả chưa chín chứa nhiều hơn (0,10%). Củ khoai tây chín và mới dỡ chỉ chứa rất ít solanine (chủ yếu tập trung ở vỏ và mắt củ) nhưng những củ đã mọc mầm có thể chứa tới 0,02%.
Mầm khoai tây tươi chứa 0,04 đến 0,13% solanine. Ta có thể chiết solanine từ mầm khoai tây bằng acid acetic 2%. Sau khi ly tâm và lọc, người ta kiềm hoá bằng amoniac, chất glycoalkaloid thô sẽ kết tủa. Rửa tủa và sấy khô. Tủa khô thu được dùng ete để loại hết solanine đi sau đó hoà tan trong cồn 80o nóng, khi cồn nguội solanine thì sẽ tủa. Tinh chế solanine thô bằng kết tinh nhiều lần trong cồn.
Cây khoai tây – Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – Tập II – Đỗ Huy Bích cùng các tác giả khác (đã sửa chính tả):
Củ khoai tây chứa các nhóm chất sau:
– Carbohydrate: Chiếm tỷ lệ 65 – 80% trọng lượng khô của củ chủ yếu là nhóm amylose và amylopectin. Ngoài ra còn chứa các đường khác như sucrose, glucose, fructose, stachyose, planteose, galactose, melibiose, ratinose, … các polysaccharide như hemicellulose, cellulose.
– Hợp chất chứa nitơ: Chiếm khoảng 1,2 – 2%, trong đó gần một nửa là protein và khoảng 35% là các hợp chất chứa nitơ không phải là protein. Các acid amin chủ yếu trong củ khoai tây là arginine, histidine, lysine tryptophan, phenylalanine, cysteine, methionine, threonine và valine.
– Các enzyme: Phosphorylase, β-amylase, phenolase, transaminase, glucosidase.
– Các vitamin: Vitamin A, thiamine, riboflavin, acid nicotinic, choline, acid folic và vitamin C.
– Các acid hữu cơ: Acid linoleic, palmitic, linolenic, oleic, stearic, myristic.
– Các phytosterol: Cholesterol, stigmasterol và β-sitosterol.
– Các anthocyanin và flavonol như rutin, quercetin-3-glucosyl-rhamnosyl glycoside, kaempferol-3-diglucoside-7-rhamnoside, kaempferol-3- triglucoside-7-rhamnoside, myricetin và quercetin.
– 8 hợp chất carotenoid là β-carotene, β-carotene-5,6-monoepoxide, cryptoxanthin-5,6-diepoxide, lutein, cis-violaxanthin, cis-antheraxanthin-5,6-monoepoxide và cis-neoxanthin.
– Glycoalkaloid như α-solanine, khi thủy phân cho solanidine, galactose, glucose và rhamnose; β-solanine, khi thủy phân cho solanidine, galactose và glucose; α-chaconine khi thủy phân thu được solanidine, glucose và 2 phân tử rhamnose; β-chaconine khi thủy phân cho solanidin, glucose và rhamnose.
Ngoài ra, củ khoai tây còn có một lượng nhỏ solanidin và yamogenin ở dạng tự do.
Thân và lá khoai tây chứa khoảng 3% tanin so với lá khô. Solanine cũng được tìm thấy trong lá, thân và hạt.

3. Tác dụng dược lý
Cây khoai tây – Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – Tập II – Đỗ Huy Bích cùng các tác giả khác (đã sửa chính tả):
Tác dụng làm giảm độ acid dịch vị: Nước ép khoai tây sống có tác dụng làm giảm độ acid của dịch dạ dày.
Tác dụng trên ruột: Nước ép khoai tây sống có tác dụng làm tăng co bóp nhu động ruột, kích thích màng nhầy dạ dày, ruột. Ăn nhiều khoai tây luộc chín có tác dụng nhuận tràng nhẹ.
Tác dụng làm dịu, làm mềm da: Bột khoai tây có tác dụng làm dịu, mềm da, thường dùng làm thuốc đắp.
Rutin và cúc flavonoid trong hoa khoai tây có tác dụng hạ huyết áp nhẹ.
Solanine trong quả và mầm củ khoai tây có tác dụng chống dị ứng, chống viêm, và chống choáng không kém cortisol. Solanin còn có tác dụng giảm đau cho chuột cống trắng uống solanine liều 30mg/kg đường huyết sẽ tăng cao. Tác dụng này bị ức chế khi dùng các chất phong bế α và β-adrenergic.
Công dụng và liều dùng khoai tây
Khoai tây chủ yếu được dùng làm lương thực, chế tinh bột dùng trong lương thực, công nghiệp chế cồn, hồ giấy, hồ vải, công nghiệp dược phẩm.
Khi ăn khoai tây mọc mầm hay vỏ củ đã xanh do để ngoài ánh sáng dễ bị ngộ độc thể hiện đau bụng vùng dạ dày và ruột, nôn mửa, đái ra máu, suy giảm hô hấp và thần kinh.
Solanine có thể dùng làm một vị thuốc giảm đau, trong những trường hợp đau bụng, đau vùng gan, đau nhức khớp xương. Dùng với liều 0,05 đến 0,20g trong một ngày dưới hình thức thuốc viên, thuốc gói hay thuốc tiêm.


Cách trồng khoai tây
Cây khoai tây – Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – Tập II – Đỗ Huy Bích cùng các tác giả khác (đã sửa chính tả):
Khoai tây là một trong những cây vụ đông phổ biến ở miền Bắc. Cây cũng được trồng ở những vùng lạnh của miền Nam, chủ yếu là Lâm Đồng.
Có thể nhân giống khoai tây bằng hạt, bằng cấy mô, giâm cành, nhưng phổ biến nhất vẫn là nhân giống bằng củ. Sau khi thu hoạch, chọn những củ có kích thước vừa phải, không dập nát, không bị bệnh, xếp lên giàn để nơi thoáng mát, đến tháng 9 – 10 đem trồng. Củ khoai tây có thời gian ngủ nghỉ khoảng 90 – 110 ngày. Sau thời gian này, củ nảy mầm. Vì vậy, khi trồng, cần tránh làm gãy mầm. Các yếu tố quyết định sự hình thành tia củ của khoai tây là nhiệt độ thấp và bóng tối. Cần bố trí thời vụ trồng sao cho cây gặp rét đậm sau khi trồng 10 – 50 ngày. Ở đồng bằng và trung du Bắc Bộ, người ta thường trồng vào tháng 9 – 10 sau khi thu hoạch lúa mùa sớm. Để đảm bảo bóng tối cho việc hình thành tia củ, cần vun gốc kịp thời.
Đất trồng khoai tây là đất cát pha, thịt nhẹ, nhiều mùn, thoát nước, tưới tiêu thuận lợi. Sau khi cày bừa, để ải, đập nhỏ, đất được chia thành luống rộng 70 – 90cm, trên mặt tạo 2 rạch sâu 15 – 20cm, cách nhau 35 – 40cm, sau đó đặt mầm giống cách nhau 30cm dọc theo rạch. Dùng phân chuồng thật hoai mục (ít nhất 25 – 30 tấn/ha) phủ lên mầm giống và phân đạm (150kg/ha) bón vào khoảng giữa các mầm giống. Ngoài ra, có thể bón thêm 300kg lân, 150kg kali hoặc tro bếp và trấu (để làm xốp đất). Cuối cùng, dùng đất phủ nhẹ, không cần phủ đầy rạch mà chỉ phủ kín phân là được. Trong suốt quá trình trồng, cần điều chỉnh việc tưới tiêu để giữ cho độ ẩm đất khoảng 60 – 70%, thời gian đầu cần giữ độ ẩm cao hơn (đất luôn có màu sẫm, bóp thấy tơi). Sau 7 – 10 ngày, cây bắt đầu mọc lên khỏi mặt đất. Lúc này, chú ý diệt sâu xám hại mầm và tỉa bớt mầm nếu quá nhiều. Mỗi cây chỉ để lai 2 – 3 mầm.
Sau 20 – 25 ngày, bắt đầu bón thúc và vun gốc 2 – 3 lần, mỗi lần cách nhau 20 ngày. Mỗi lần bón thúc 80 – 85kg ure/ha, có thể bón thêm nước phân chuồng, nước giải pha loãng. Sau khi bón, vun cao đất hai bên rạch vào gốc, để cây thò lên khoảng 7 – 10 cm.
Khoai tây thường bị sâu xanh, rệp hại lá, nhất là bệnh virus. Người ta đã phát hiện có tới 33 loại virus khác nhau hại khoai tây. Cách khắc phục duy nhất là dùng giống sạch virus. Hiện nay, ở Việt Nam người ta đã nghiên cứu và áp dụng thành công nhiều kỹ thuật tiến bộ để khắc phục sự thoái hóa giống khoai tây, kể cả thoái hóa do bệnh lý cũng như do sinh lý. Ngoài ra, còn nhập thêm nhiều giống mới, có năng suất cao.
Khoai tây trồng khoảng 3 tháng có thể thu hoạch. Khi thu, chọn ngày nắng ráo đào lấy củ, tránh dập nát. Phân loại và để nơi thoáng mát, không đắp đống quá dày. Năng suất trung bình trong sản xuất đạt 10 – 12 tấn/ha (giống Ackersegen).





Địa chỉ bán cây giống khoai tây uy tín chất lượng ?
Địa chỉ: Ngách 68/45, ngõ 68, đường Nguyễn Văn Linh, phường Long Biên, thành phố Hà Nội.
- Quý khách xin vui lòng liên hệ với Cây cảnh Hải Đăng để được các chuyên viên của chúng tôi tư vấn lựa chọn sản phẩm cây giống khoai tây phù hợp.
- Chúng tôi sẽ chụp ảnh sản phẩm cho quý khách nếu có yêu cầu.
- Chúng tôi sẽ kiểm tra kỹ hàng hóa đảm bảo chất lượng và đúng quy cách trước khi giao.
- Quý khách ở xa vui lòng tiến hành chuyển khoản trước hoặc đặt cọc trước. Nếu quý khách ở nội thành có thể áp dụng ship nhanh với chi phí 50k một lần ship.
Tài liệu tham khảo
- Cây khoai tây – Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi.
- Cây khoai tây – Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – Tập II – Đỗ Huy Bích cùng các tác giả khác.