Rong ăn thịt có tên khoa học là Aldrovanda vesiculosa L; đồng nghĩa Aldrovanda generalis E.H.L.Krause; Aldrovanda verticillata Roxb; Drosera aldrovanda F.Muell; là một loài duy nhất trong chi Aldrovanda thuộc họ Bắt ruồi Droseraceae. Loài thường được gọi với cái tên là the waterwheel plant ( cây bánh xe nước ). Cây này chuyên bắt nhóm các động vật nhỏ không xương sống dưới nước bằng những chiếc bẫy tương tự như ở cây bắt ruồi Venus ( Dionaea muscipula ). Các bẫy được sắp xếp thành vòng tròn xung quanh một thân trung tâm nổi tự do, tạo thành hình dáng rất giống bánh xe nhưng ở dưới nước, nên tên gọi bánh xe nước ra đời từ đó. Được biết đây cũng là một trong số rất ít cây có khả năng di chuyển nhanh trong nước.
Chi Aldrovanda /ˌældrəˈvændə/ có tới 19 loài đã tuyệt chủng được tìm thấy trong hồ sơ hóa thạch, hiện cả chi chỉ còn mỗi A. vesiculosa là loài duy nhất. Và trong khi các loài thể hiện mức độ về tính dẻo hình thái giữa các quần thể, thì A. vesiculosa lại bị đánh giá là có sự đa dạng di truyền vô cùng thấp trên toàn bộ phạm vi của nó. Tên chi được đặt tên để vinh danh nhà tự nhiên học người Ý Ulisse Aldrovandi, người sáng lập ra Vườn thực vật Bologna, Orto Botanico dell’Università di Bologna.
Số lượng cá thể của loài rong ăn thịt này đã giảm mạnh trong thế kỷ qua, và hiện chỉ còn 50 quần thể lớn còn tồn tại được xác nhận trên toàn thế giới, chủ yếu phân bố ở Châu Âu, Châu Phi và Úc, nhờ được bảo tồn và phát triển bởi những người ưa thích nó.
Hình thái rong ăn thịt
Cây bánh xe nước là một loại thực vật thủy sinh nhỏ, nổi tự do và không có rễ, có chiều dài khoảng 1,5 – 20 cm và các vòng lá với đường kính khoảng từ 1 đến 2 cm. Cứ sau từ 3 – 4 cm trên cành cây đôi khi sẽ khi hình thành các nhánh mới. Trung bình sẽ có từ 12 đến 19 vòng lá dọc theo chiều dài của cây, mỗi vòng có khoảng 5 đến 9 lá, mỗi lá dài tới 11 mm được gắn trên một cuống lá có chứa các túi khí trợ nổi. Tốc độ tăng trưởng của loài nhanh hơn các loài cây ăn thịt trên cạn, có khi tăng khoảng 4 – 9 mm mỗi ngày.
Ở những vùng ôn đới, cây này không hoạt động trong mùa đông, thay vào đó nó sẽ tạo thành các chồi đông hay turion ( xuất phát từ chữ Latin turio mang nghĩa là “shoot” ) khoảng 4 – 6 mm và chìm xuống đáy, nhưng thực tế trong tự nhiên, các chồi đông này có tỷ lệ chìm thành công tương đối thấp. Vì vậy những chồi đông không thể chìm sau đó sẽ được “chăn thả” bởi chim ở nước ( mòng két, le le… ) hoặc sẽ bị chết khi mùa băng giá đến. Vào mùa xuân khi nhiệt độ nước tăng lên trên 12 – 15oC, các chồi đông sẽ tiến hành giảm mật độ bên trông chúng và nổi lên trên mặt nước, nơi chúng nảy mầm và tiếp tục tăng trưởng. Ở các vùng nhiệt đới, cây phát triển quanh năm mà không hề tạo thành các chồi đông. Cây phát triển mạnh và chỉ cho ra hạt ở những vùng ấm hơn, với nhiệt độ cao hơn 25oC và chỉ cho ra một bông hoa, màu trắng hoặc hồng nhạt, xuất hiện trên bề mặt nước. Ở các vùng ôn đới, cây sinh sản chủ yếu thông qua các phương pháp sinh sản vô tính, tạo ra hạt giống không tồn tại được hoặc không có hoa.
Chiếc bẫy của rong ăn thịt
Các bẫy thực tế bao gồm hai thùy gấp lại với nhau để tạo thành một cái bẫy tương tự như ở cây bắt ruồi Venus, ngoại trừ việc nó nhỏ hơn và nằm ở dưới nước. Cấu trúc và cơ chế bẫy này như sau:
Cấu trúc bẫy của A. vesiculosa bao gồm hai thùy lồi khi đang mở ( nhìn từ bên ngoài ), được nối với nhau bằng một gân giữa ( midrib ) ( Hình a, b ). Phần thùy bẫy trung tâm tạo thành cái gọi là vùng ba lớp ( three – layered region ) ( bao gồm hai lớp tế bào biểu bì [ epidermal cell ] ở hai bên lớp nhu mô [ parenchymatous layer ] ) và phần trên là vùng một lớp ( single – layered region ) ( bao gồm hai lớp biểu bì ). Cả hai khu vực này được liên kết bởi một ranh giới vây bắt ( enclosure boundary ). Các thùy bẫy tạo thành các mép gấp nếp ( infolded rims ) với các phần nhô ra giống như “răng – teeth” ( Hình a, c ).
Bẫy được kích hoạt khi xuất hiện các kích thích cơ học gây ra bởi con mồi trên những sợi lông nhỏ ( tiny hairs ) hay lông kích hoạt ( trigger hairs ), chủ yếu tập trung số lượng lớn ở khu vực trung tâm bên trong bẫy bên dưới ranh giới vây bắt, khi đó hai thùy bẫy nhanh chóng di chuyển cực nhanh về phía nhau để giam giữ con mồi. Cơ chế mà cái bẫy này đóng lại liên quan đến sự qua lại phức tạp giữa tính đàn hồi, sức trương và sự sinh trưởng. Ở trạng thái mở, tức chưa bẫy, mặt thùy lồi ( uốn cong ra ngoài ), nhưng khi ở trạng thái đóng chặt, mặt thùy lõm ( tạo thành một khoang ). Chính sự lật qua cực kì nhanh chóng của trạng thái ổn định kép này đã giúp chiếc bẫy được đóng lại, nhưng cơ chế mà khiến điều này xảy ra vẫn chưa được tìm hiểu rõ. Khi các sợi lông nhỏ ( tiny hairs ) bị kích thích, một tiềm lực hành động ( action potential ) ( chủ yếu liên quan đến các ion canxi Ca2+ – ion góp phần vào sinh lý và sinh hóa của tế bào sinh vật, đóng một vai trò quan trọng trong quá trình dẫn truyền tín hiệu ) được tạo ra, lan truyền qua các thùy và kích thích các tế bào ở thùy và gân giữa ( midrib ) giữa chúng. Việc đóng cái bẫy này mất 10 – 20 mili giây, khiến nó trở thành một trong những ví dụ nhanh nhất về chuyển động thực vật trong vương quốc. Bẫy này chỉ có thể hoạt động trong điều kiện ấm áp tối thiểu là 20oC. Mỗi cái bẫy được bao quanh bởi từ bốn đến sáu chiếc tơ cứng ( bristles ) dài 6 – 8 mm, ngăn chặn việc kích thích bẫy bởi các mảnh vụn đi lung tung trong nước.
Phân bố của rong ăn thịt
Aldrovanda vesiculosa là loài cây ăn thịt có phân bố rộng rãi nhất, cây có nguồn gốc từ Châu Âu, Châu Á, Châu Phi và Úc. Aldrovanda lây lan chủ yếu thông qua sự di chuyển của chim ở nước, cụ thể cây bám vào chân chim bởi những chiếc bẫy khi tưởng nhầm đó là con mồi và được vận chuyển đến địa điểm dưới nước tiếp theo trên tuyến đường bay của chim. Do đó, hầu hết các quần thể Aldrovanda nằm dọc theo các tuyến đường di cư của chim. Trong suốt thế kỷ qua, loài này ngày càng hiếm, được coi là đã tuyệt chủng ở một số lượng lớn các quốc gia.
Đặt tên
Aldrovanda vesiculosa lần đầu tiên được đề cập vào năm 1696 bởi Leonard Plukenet, dựa trên các mẫu thu thập được lấy từ Ấn Độ. Ông đặt tên cho loài là Lenticula pulustris Indica. Còn tên loài hiện đại bắt nguồn từ Gaetano Lorenzo Monti, người đã mô tả các mẫu vật của Ý vào năm 1747 và đặt tên cho chúng là Aldrovandia vesiculosa để vinh danh nhà tự nhiên học người Ý Ulisse Aldrovandi ( như đã nhắc ở trên ). Khi Carl Linnaeus công bố cuốn sách Species Plantarum của mình vào năm 1753, chữ “i” đã bị loại bỏ ( như một lỗi chính tả rõ ràng ) để tạo thành danh pháp hai phần hiện đại.
Comments are closed.