Sâu xanh trúc đào hay sâu hoa sữa, tên Tiếng anh oleander hawk-moth hoặc army green moth ( danh pháp khoa học Daphnis nerii Linnaeus ) là tên gọi pha sâu non của loài bướm đêm thuộc họ Sphingidae; được mô tả lần đầu tiên bởi Carl Linnaeus vào năm 1758 trong số thứ 10 tập Systema Naturae ( 10th edition of Systema Naturae ) của ông.


Lần cập nhật nội dung gần nhất: 5/1/2021.
Lưu ý: Thông tin trong bài viết được dịch từ nhiều nguồn nên có thể không chính xác. Rất mong bạn đọc góp ý và sửa lỗi để người viết có thể cải thiện bài viết hơn nữa trong tương lai.
Phân bố của sâu xanh trúc đào

Daphnis nerii là một loài bướm đêm kích thước lớn được tìm thấy ở một số khu vực rộng lớn tại châu Phi, châu Á và một số quần đảo Hawaii, nơi loài được sử dụng để kiểm soát sinh học đối với sự xâm lấn của loài trúc đào ( Nerium oleander L. ) cũng như thụ phấn tự nhiên cho các loài hoa có nguy cơ tuyệt chủng như Brighamia insignis A.Gray và Brighamia rockii H.St.John vốn trước đây phải thụ phấn bằng tay. D. nerii có tập tính di cư, khi trưởng thành có thể bay đến các vùng phía đông và nam châu Âu vào mùa hè, đặc biệt là Thổ Nhĩ Kỳ.

Ký chủ
Trưởng thành của D. nerii thích ăn mật hoa ( nectar ) trên nhiều loại hoa cảnh, nhất là những loài hoa có mùi thơm như dã yên thảo ( chi Petunia ), hoa nhài ( chi jasmine ) và kim ngân ( honeysuckle ). Chúng đặc biệt hoạt động mạnh vào thời điểm hoàng hôn, thường tập trung bay lượn trên những bông hoa sau khi mặt trời lặn. Ký chủ chính của D. nerii là trúc đào ( Nerium oleander L. ), một loài cây có độc tính cao nhưng vô dụng với sâu non khi chúng có khả năng miễn dịch.
Ngoài ra D. nerii cũng tấn công một số loại cây khác thuộc họ La bố ma Apocynaceae, chẳng hạn như Sứ sa mạc Adenium obesum (Forssk.) Roem. & Schult.; Ngọc bút Tabernaemontana divaricata R.Br. ex Roem. & Schult.; Hoa sữa Alstonia scholaris (L.) R.Br. ở Ấn Độ và Dừa cạn Catharanthus roseus (L.) G.Don..


Vòng đời sâu xanh trúc đào

Trứng có hình gần cầu, kích thước nhỏ khoảng 1,50 x 1,25 mm; màu xanh lục nhạt. Trứng được để đơn lẻ ở cả mặt trên và mặt dưới lá non. Đa số trứng đều mất đến mười hai ngày để nở, nhưng khi gặp thời tiết nóng, một số trứng chỉ nở trong vòng năm ngày.






Sâu non mới nở có chiều dài từ 3 – 4 mm, có màu vàng sáng với một sừng ( horn ) màu đen, mỏng, dài mọc ra từ đốt bụng cuối của cơ thể. Sau khi tiêu thụ thêm thức ăn thì cơ thể sâu non nhanh chóng chuyển sang màu xanh lục và sau lần lột xác ( moult ) đầu tiên, về cơ bản chúng có cơ thể màu lục nhạt ( apple-green ) kèm một vệt trắng mờ phía bên lưng cùng rải rác các chấm nhỏ màu trắng hoặc hơi xanh kéo dài từ đốt bụng thứ nhất đến tận sừng, thêm một đốm mắt ( eyespots ) nhỏ màu trắng ở đốt ngực thứ 3, lỗ thở ( spiracles ) màu đen nhìn khá rõ. Khi lớn, đốm mắt chuyển dần màu xanh lam với tâm màu trắng, cùng vòng ngoài màu đen. Càng về tuổi cuối, phía đầu sừng sẽ xuất hiện một cái ‘nắp’ hình củ bất thường.
Sâu non tuổi cuối có rất ít sự khác biệt so với những tuổi trước đó, ngoại trừ sự thay đổi ở các đốm mắt, sừng mất đi ‘nắp’ và chuyển dần thành màu cam với đầu đen, xuất hiện mụn nhỏ và có xu hướng cong xuống. Ở một số cá thể đặc biệt, bề mặt lưng có màu hồng, còn lại sẽ có viền màu xanh lam xung quanh vệt trắng phía bên lưng. Đặc biệt, chiều dài sâu non tuổi cuối có thể đạt từ 7,5 – 8,5 cm; ngang với chiều dài phiến lá cây dừa cạn.
Sâu non tuổi nhỏ chủ yếu phá hoại trên lá và đọt non ở đầu cành; khi lớn hơn một chút, sâu có xu hướng bò xuống sâu phía bên dưới tán cây để ẩn nấp; thường là phía dưới dọc theo phiến lá và cuống lá, hay cành sát mặt đất với bốn đốt đầu hơi khum lại. Khi bị quấy rầy, các đốt trước cong lên, vô tình để lộ các đốm mắt nhằm đe dọa và xua đuổi kẻ thù; kèm theo đó là một số chất độc trong ruột ( gut ) có thể trào ngược ra ngoài.

Ngay trước khi hóa nhộng ( pupates) , có thể sâu non sẽ chuyển dần sang màu nâu sậm.


Nhộng có chiều dài từ 60 – 75 mm; màu nâu nhạt với các chấm nhỏ màu nâu đặc biệt là trên cánh và các đốt bụng. Một vệt đen rõ chạy dọc theo vòi ( proboscis ), trên đầu và ngực, trước khi mờ dần về phía các đốt bụng. Gai bụng ( cremaster ) ngắn và thẳng. Lỗ thở ( spiracles ) trên mỗi đốt bụng hình thành một đốm nâu rất đậm, gần như đen. Bao quanh mỗi mắt là một vết hình lưỡi liềm đen.


Trưởng thành với đầu ( head ) hơi lục. Ngực ( thorax ) màu xanh lục và bụng ( abdomen ) màu xanh lục nhạt. Cánh trước màu xanh đậm kèm mảng trắng với đốm đen chính giữa ở gốc; giữa cánh có một số vân trắng cong xếp xít nhau, màu phớt hồng về phía sau mép cánh; cùng mảng màu tía hình tam giác kéo dài từ bên dưới vùng trung tâm hay ô cánh ( cell ) đến gần sát mép ngoài.
Biện pháp quản lý
Sâu khi ăn thường đùn phân xuống dưới đất gần sát gốc cây nên có thể dùng để nhận biết. Sâu có kích thước lớn nên có thể dùng tay bắt dễ dàng;
Tài liệu tham khảo
- Daphnis nerii Linnaeus – Wikipedia Tiếng anh
- Daphnis nerii (Linnaeus, 1758) – www.gbif.org