Độ hoàn thiện nội dung: 70%.
Ô rô cạn hay đại kế, thích kế, thiết thích ngãi, dã thích thái, thích khải tử, hổ kế, mã kế, dã hồng hoa, sơn ngưu bàng, hễ hạng thảo, tên tiếng Anh là Japanese thistle, plumed thistle, sea thistle (danh pháp khoa học là Cirsium japonicum Maxim.) là một loài thực vật có hoa thuộc họ Cúc Asteraceae.
Đại kế (Herba et Radix Cirsii japonici) là toàn cây ô rô phơi hay sấy khô bao gồm thân, cành, lá, cụm hoa và rễ.




Mô tả cây ô rô
Cây ô rô (đại kế) – Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi (đã sửa chính tả):
Ô rô là một loại cỏ sống lâu năm, rễ hình thoi dài, có nhiều rễ phụ, thân cao 58 – 100cm hay hơn; thân màu xanh, có nhiều rãnh dọc, nhiều lông. Lá ở góc dài 20 – 40cm hay hơn, rộng 5 – 10cm, hai lần xẻ lông chim, thành thùy, mặt trên nhẵn, mép có gai dài, lá ở thân không cuống, chia thùy. Càng lên trên càng nhỏ và chia đơn giản hơn. Cụm hoa hình đầu mọc ở kẽ lá hay đầu cành, đường kính chừng 3 – 5cm. Lá bắc hẹp nhọn, không đều, lá ngoài ngắn và rất nhọn, lá bắc trong có đầu mềm hơn, tất cả đều ít lông, có gân chính giữa nổi rõ. Cánh hoa màu tím đỏ. Quả thuôn dài 4mm, nhẵn, hơi dẹt. Mùa hoa vào các tháng 5 – 7, mùa quả vào các tháng 5 – 9.
Cây đại kế – Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – Tập I – Đỗ Huy Bích cùng các tác giả khác (đã sửa chính tả):
Cây thảo nhỏ, sống lâu năm, cao 50 – 80cm. Rễ phân nhánh. Thân thẳng, màu lục, có rãnh dọc và nhiều lông. Lá mọc so le, hình mác không cuống, gốc ôm sát thân, mép uốn lượn, có răng cưa dạng gai sắc, lá gốc và lá ở giữa thân chia thùy không đều, dài 20 – 40cm, rộng 5 – 10cm, lá ở ngọn và cành có hoa ít chia thùy hơn, mặt trên nhẵn, mặt dưới nhạt.
Cụm hoa mọc ở kẽ lá và đầu cành thành đầu to; lá bắc có lông, xếp thành 5 – 7 hàng, không đều, lá phía ngoài ngắn và sắc, lá phía trong mềm và gập xuống; hoa rất nhiều, lưỡng tính, màu tím đỏ; tràng có ống loe ra 5 cánh, 5 nhị có tai ở gốc, chỉ nhị có lông; bầu nhẵn. Quả bế thuôn, hơi dẹt, nhẵn, có 5 cạnh mờ. Mùa hoa: tháng 5 – 7; mùa quả: tháng 8 – 10.
Tránh nhầm với cây ô rô cũng gọi là đại kế.
Thông tin thêm
1. Phân bố, thu hái và chế biến
Cây ô rô (đại kế) – Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi (đã sửa chính tả):
Cây mọc hoang ở khắp miền bắc và miền trung nước ta. Còn mọc ở Trung Quốc (Quảng Đông, Quảng Tây, Quý Châu, Vân Nam, … ), Nhật Bản.
Mùa hạ và mùa thu, đang lúc hoa nở thì hái toàn cây, phơi khô mà dùng. Hái vào mùa thu người ta cho là tốt hơn. Nếu dùng rễ, nên hái vào mùa thu rễ sẽ to hơn; đào rễ về cắt bỏ rễ con, rửa sạch đất phơi khô.
Cây đại kế – Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – Tập I – Đỗ Huy Bích cùng các tác giả khác (đã sửa chính tả):
Cirsium Mill. là một chi lớn với tổng số khoảng 380 loài, phân bố ở vùng ôn đới và một số ít loài ở vùng cận nhiệt đới Bắc bán cầu. Ở Việt Nam, chi này có 4 loài, trong đó loài đại kế được coi là cây có vùng phân bố hạn chế nhất, thường chỉ thấy ở vùng núi cao trên 1500m như: SaPa (Lào Cai); Đồng Văn, Mèo Vạc, Quản Bạ (Hà Giang), Sìn Hồ (Lai Châu) và Mù Cang Chải (Yên Bái). Trên thế giới, đại kế có ở Trung Quốc, Nhật Bản và vùng Viễn Đông Nga.
Đại kế là cây ưa sáng, khi còn nhỏ hơi chịu bóng, thường mọc ở ven rừng, trên bãi cỏ, nương rẫy cũ của vùng núi đá vôi. Cây có thể chịu được hạn, nhờ hệ thống rễ chùm mọng nước (gọi là củ) cắm sâu xuống đất. Trong trường hợp bị đốt (đốt nương), phần dưới mặt đất vẫn còn khả năng tái sinh, cây mọc từ hạt xuất hiện vào tháng 4 – 5, đến cuối mùa thu ra hoa quả. Quả đại kế có túm lông, phát tán nhờ gió. Ở Việt Nam đại kế thuộc loại cây thuốc quý hiếm, rất ít gặp trong tự nhiên.
Dùng toàn cây, thu hái vào mùa hạ, thu khi đang có hoa, phơi khô. Người ta cho rằng hái vào mùa thu tốt hơn. Rễ đào vào mùa thu sẽ có rễ to hơn, cắt bỏ rễ con, rửa sạch, phơi khô.
2. Thành phần hóa học
Cây đại kế – Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – Tập I – Đỗ Huy Bích cùng các tác giả khác (đã sửa chính tả):
Toàn cây đại kế chứa tinh dầu. Lá có pectolinarin, aplotaxene (Phytochemistry 1983 22(4):1030). Trong loài Cirsium japonicum var. ussurience Kitamura có flavone glucoside: hispidulin-7-α-rhamnopyranosyl-(1→2)-β-D-glucopyranoside (CA 127, 1997, 92704z). Phần trên mặt đất của cây chứa hai flavone glucoside là linarin và cirsimarin (CA 124, 1996, 226519s), các flavonoid: hispidulin-7-neohesperidoside, cirsimaritin-4’-glucoside và acacetin-7-rutinoside (CA. 123, 1995, 52369c), các sterol: Ψ-taraxasterol acetate, β-amyrin acetate, dotriacontanol, stigmasterol và allantoin (CA. 117, 1992, 208913s), các polyacetylene cyrineol A, B, C (Phytochemistry 1991, 30(7):2321 – 4; 1990, 29(12):3844 – 52).





Công dụng và liều dùng cây ô rô
Đại kế có vị ngọt, đắng, tính mát, vào kinh tâm và can, có tác dụng làm mát máu (lương huyết), cầm máu, tán ứ, tiêu sưng tấy.
Đại kế được dùng chữa các dạng xuất huyết, chảy máu cam, ho ra máu, lao, nôn ra máu, đái ra máu, xuất huyết tử cung, bang lậu. Còn chữa viêm gan, viêm vú, thông sữa, viêm phù thân, ung thũng, sang độc, cao huyết áp. Ngày uống 9 – 15g dạng thuốc sắc. Dùng ngoài trị mụn nhọt độc, ghẻ lở, vết thương đụng dập, lấy 60 – 120g toàn cây, giã ép lấy nước uống.
Bài thuốc có đại kế:
Chữa lao, ho ra máu: Đại kế, tiểu kế, lá sen, trắc bá, rễ cỏ tranh, chi tử, đại hoàng, mẫu đơn bì, lượng bằng nhau, sao, nghiền thành bột, mỗi lần 10 – 15g, uống với dịch ép ngó sen hoặc cà rốt sau bữa ăn.
Chữa ho ra máu, miệng khô: Lá hoặc rễ đại kế tươi, rửa sạch giã nát, ép lấy nước uống, mỗi lần 30 – 50ml.
Chữa thổ huyết, chảy máu cam, đái ra máu: Đại kế, trắc bá sao, lá sen, thiên thảo, rễ cỏ tranh, dành dành sao giòn, mỗi vị 20g, sắc uống. Riêng chảy máu cam, có thể dùng rễ đại kế 60g giã nhỏ, ép lấy nước uống với rượu hoặc rễ khô, tán bột, mỗi lần uống 10g với nước. Còn đái ra máu có thể dùng rễ đại kế tươi 60 – 90g, sắc trong 1 giờ, uống trước bữa ăn, ngày 3 lần.
Chữa băng huyết, kinh nguyệt quá nhiều: Đại kế 20g, bồ hoàng 8g, đại táo 10 quả. Sắc chia 3 lần uống trong ngày. Hoặc đại kế, tiểu kế, bồ hoàng mỗi vị 10g, hạt trinh nữ, cỏ nhọ nồi mỗi vị 12g. Sắc uống.
Chữa ung thư gan, tràn dịch cổ trướng: Đại kế và hàm ếch mỗi vị 80 – 100g, sắc uống (kinh nghiệm của Trung Quốc).
Chữa mụn nhọt, lở ngứa, vết thương đụng dập, sưng đau, viêm gan, viêm thận: Đại kế, mộc thông, kim ngân hoa, ngưu tất, sinh địa, mỗi vị 20g, sắc uống. Nếu là viêm gan thì thay đại kế bằng tiểu kế. Trong trường hợp mụn nhọt, lở ngứa và vết thương, có thể lấy cây đại kế tươi, giã nát, vắt lấy nước uống và bôi ngoài.
Về biến chứng luận trị cần lưu ý là đại kế phối hợp với sinh địa, đại hoàng chữa ho ra máu, nôn ra máu, phối hợp với rễ cỏ tranh chữa tiểu tiện ra máu, với đại hoàng, đào nhân chữa viêm ruột, với hoa mào gà chữa băng lậu.
Chú ý: Không dùng đại kế cho bệnh nhân tì vị hư hàn và không có ứ trệ. Vị thuốc kỵ với dụng cụ bằng sắt.
Địa chỉ bán cây ô rô tại Hà Nội uy tín ?
Địa chỉ: Ngách 68/45, ngõ 68, đường Nguyễn Văn Linh, phường Long Biên, thành phố Hà Nội.
- Quý khách xin vui lòng liên hệ với Cây cảnh Hải Đăng để được các chuyên viên của chúng tôi tư vấn lựa chọn sản phẩm bầu giống ô rô phù hợp.
- Chúng tôi sẽ chụp ảnh sản phẩm cho quý khách nếu có yêu cầu.
- Chúng tôi sẽ kiểm tra kỹ hàng hóa đảm bảo chất lượng và đúng quy cách trước khi giao.
- Quý khách ở xa vui lòng tiến hành chuyển khoản trước hoặc đặt cọc trước. Nếu quý khách ở nội thành có thể áp dụng ship nhanh với chi phí 50k một lần ship.








