Ngũ trảo chuẩn giống, khỏe mạnh tại nhà vườn Hải Đăng.
Lần cập nhật ( chỉnh sửa và cải tiến ) nội dung gần nhất: 5/4/2021.
A. Xem cây ngũ trảo
B. Phân loại và gọi tên
Tên thường gọi | Ngũ trảo |
Tên gọi khác trong Tiếng Việt | Mẫu kinh, chân chim, hoàng kinh, ngũ trảo phong, ô liên mẫu |
Tên Tiếng Anh | Chinese chaste tree, five-leaved chaste tree, horseshoe vitex |
Tên gọi khác tại một số quốc gia, lãnh thổ, khu vực, dân tộc, bộ lạc, … | অসমীয়া ( tiếng Assam ): পচতীয়া; বাংলা ( tiếng Bengal ): নিশিন্দা; čeština ( tiếng Séc ): Drmek čínský; eesti ( tiếng Estonia ): Viietine mungapipar; فارسی ( tiếng Ba Tư ): پنج انگشت; français ( tiếng Pháp ): Troène de Chine; हिन्दी ( tiếng Hindi ): निर्गुन्डी; magyar ( tiếng Hungary ): Kínai barátcserje; հայերեն ( tiếng Armenia ): Կուսածառ չինական; Bahasa Indonesia ( tiếng Indonesia ): Legundi; ಕನ್ನಡ ( tiếng Kannada ): ಲಕ್ಕಿ ಗಿಡ; 한국어 ( tiếng Hàn ): 좀목형; മലയാളം ( tiếng Malayalam ): കരിനൊച്ചി; मराठी ( tiếng Marathi ): निर्गुडी; Bahasa Melayu ( tiếng Mã Lai ): Pokok Lagundi; မြန်မာဘာသာ ( tiếng Miến Điện ): ကြောင်ပန်းကြီး; नेपाली ( tiếng Nepal ): सिमाली; संस्कृतम् ( tiếng Phạn ): निर्गुण्डिसस्यम्; தமிழ் ( tiếng Tamil ): வெண்ணொச்சி; తెలుగు ( tiếng Telugu ): నీరువావిలి; ภาษาไทย ( tiếng Thái ): คนทีเขมา; Tagalog ( tiếng Tagalog ): Lagundi; Winaray / Samareño ( tiếng Waray ): Lagundi; 中文 ( Trung văn ): 黄荆, 黃荊, 埔荊茶, 埔姜仔; |
Danh pháp khoa học ( hiện tại ) | Vitex negundo L. |
Danh pháp đồng nghĩa | Agnus-castus incisa (Lam.) Carrière |
Agnus-castus negundo (L.) Carrière | |
Vitex elmeri Moldenke | |
Bộ thực vật | Hoa môi ( Lamiales ) |
Họ thực vật | Hoa môi ( Lamiaceae ) |
Chi thực vật | Vitex |
Nguồn gốc | Đang tìm hiểu |
Lưu ý: Thông tin trong bài viết được tham khảo từ nhiều nguồn nên có thể không chính xác. Mong bạn đọc góp ý và sửa lỗi để shop có thể cải thiện bài viết hơn nữa trong tương lai.
Được biết chi Vitex /ˈvaɪtɛks/ là một chi thực vật có hoa trong họ Hoa môi Lamiaceae. Chi này hiện có khoảng 250 loài. Các tên phổ biến khác bao gồm “chaste tree” hoặc “chastetree”, theo thông lệ là dùng để chỉ loài V. agnus-castus nhưng cũng thường được áp dụng cho một số các loài khác.
Các loài trong chi Vitex có nguồn gốc ở khắp các vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới, với một số loài ở vùng ôn đới của lục địa Á-Âu và một loài ở New Zealand.
Khoảng 18 loài được biết đến là có sử dụng trong nghề làm vườn. Vitex agnus-castus và Vitex negundo là 2 loài thường được trồng ở vùng khí hậu ôn đới. Khoảng sáu loại khác thì thấy được trồng ở vùng nhiệt đới. Hầu hết các loài trong chi được trồng làm cảnh. Số khác cung cấp gỗ xây kiến trúc cho giá trị cao. Các cành dễ uốn của một số loài được sử dụng trong việc đan rổ. Ngoài ra tinh dầu của một số loài còn được ứng dụng trong y học hoặc đuổi muỗi.
C. Mô tả cây
V. negundo là một loại cây bụi phân nhánh nhiều hoặc cây gỗ nhỏ cao từ 2 đến 8 m. Vỏ cây màu nâu đỏ, cành non hình vuông. Lá kép hình chân vịt, mọc đối, với 5 lá chét hình mũi mác ( đôi khi là ba ), tổng thể lá giống như 5 cái móng chim nên được gọi là ngũ trảo. Mỗi lá chét dài khoảng 4 đến 10 cm, với lá chét ở chính giữa có kích thước lớn nhất và có cuống dài, lá chét bên nhỏ hơn kèm cuống ngắn. Mép nguyên hay răng cưa hoặc khía răng cưa, mặt trên màu xanh lục sẫm, mặt dưới phủ một lớp lông mịn màu trắng bạc. Hoa mọc thành cụm hình chùy dài từ 10 đến 20 cm, có màu từ trắng đến xanh lam. Các cánh hoa có độ dài khác nhau, với thùy dưới ở giữa là dài nhất. Cả tràng hoa và đài hoa đều được bao phủ bởi lớp lông dày. Quả ngũ trảo là dạng quả mọng có màu vàng đen hoặc đen, đỉnh quả thường lõm, có đài bao bọc, bên trong chứa 4 hạt. Mùa quả từ từ tháng 5 – 7.
D. Thông tin thêm
1. Phân bố và thu hái
V. negundo có nguồn gốc từ vùng nhiệt đới Đông và Nam Phi hay Châu Á. Các quốc gia được coi là bản địa của loài bao gồm Afghanistan, Bangladesh, Bhutan, Campuchia, Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia, Nhật Bản, Hàn Quốc, Kenya, Madagascar, Malaysia, Mozambique, Myanmar, Nepal, Pakistan, Philippines, Sri Lanka, Đài Loan, Tanzania, Thái Lan, và Việt Nam.
Ở nước ta, cây ngũ trảo mọc hoang và được trồng từ Lạng Sơn, Quảng Ninh, Bắc Thái, Hà Tây, Hà Nội, Ninh Bình, Thanh Hoá, Nghệ An, Thừa Thiên – Huế, Quảng Nam – Đà Nẵng, Bình Định tới Sông Bé, Tiền Giang, Kiên Giang. Trồng bằng hạt hoặc bằng cành vào đầu mùa mưa. Thu hái lá, rễ, vỏ quanh năm, dùng tươi hay phơi khô. Quả thu hái vào mùa hè thu, phơi khô dùng dần.