Hoa huệ ngựa chết – loài hoa của sự hôi thối.
Lần cập nhập nội dung gần nhất: 5/7/2019.
Tên thường gọi | Hoa huệ ngựa chết |
Tên gọi khác trong Tiếng Việt | Đang tìm hiểu |
Tên Tiếng Anh | Dead horse arum lily |
Tên gọi khác tại một số quốc gia, lãnh thổ, khu vực, dân tộc, bộ lạc, … | català ( tiếng Catalunya ): Rapa mosquera; Rapa pudenta; Orella de porc Corsu ( tiếng Corse ): Arechja di porcu español ( tiếng Tây Ban Nha ): Helicodiceros português ( tiếng Bồ Đào Nha : Helicodiceros svenska ( tiếng Thụy Điển ): Fläckig drakkalla |
Danh pháp khoa học ( hiện tại ) | Helicodiceros muscivorus (L.f.) Engl. |
Danh pháp đồng nghĩa | Arum crinitum Aiton |
Arum muscivorum L.f. | |
Dracunculus muscivorus (L.f.) Parl. | |
Bộ thực vật | Trạch tả ( Alismatales ) |
Họ thực vật | Ráy ( Araceae ) |
Phân họ thực vật | Ráy ( Aroideae ) |
Tông thực vật | Areae |
Chi thực vật | Helicodiceros |
Hoa huệ ngựa chết ( H. muscivorus ) là một loài cây cảnh có nguồn gốc từ đảo Corse, Sardegna và quần đảo Balearic; và cũng là loài duy nhất thuộc chi Helicodiceros. Sở dĩ loài cây này có tên gọi đặc biệt như vậy là bởi tổng thể hoa khi nở hệt như đang “mô phỏng” hậu môn của một con ngựa chết.
Đi kèm với hình dáng như muốn “vả” vào mặt người xem, hoa của H. muscivorus còn tỏa ra mùi trông chả khác gì mùi thịt thối, chuyên để “hấp dẫn” những con ruồi đang tìm kiếm xác thối với vai trò là loài thụ phấn. Là một trong nhóm thực vật sinh nhiệt ( thermogenic plant ) hiếm gặp, hoa huệ ngựa chết có thể tự làm tăng nhiệt độ của chính nó bằng cách sinh nhiệt ( thermogenesis ) giúp tăng cảm giác “chân thực” cho lũ ruồi mò tới.
A. Đặc điểm
Cụm hoa của H. muscivorus là một bông mo ( spadix ) dài được bao quanh bởi một mo ( spathe ) lớn, nhìn như da thú; kết hợp với phần phụ bộ ( appendix ) lộ ra ngoài hệt như chiếc “đuôi” khiến ta không khỏi liên tưởng tới vùng hậu môn trên xác một con thú.
Khi bổ dọc buồng hoa ( floral chamber ), ta sẽ thấy gần gốc bông mo là 2 đoạn mang nhiều hoa nhỏ, đơn tính với hoa đực phía trên và hoa cái phía dưới, xen kẽ chúng là các hoa bất dục ( sterile flower ) hay “gai” làm mồi nhử và chặn lối ra. Phần phụ bộ và hoa đực đều có khả năng sinh nhiệt, nhưng có kiểu thời gian khác nhau. Hoa đực thể hiện sự độc lập về nhiệt độ nhờ cơ chế sinh nhiệt phụ thuộc nhiều vào thời gian trong ngày hơn là nhiệt độ môi trường xung quanh. Ngoài ra, protein tách cặp ( uncoupling protein hay UCP ) được tìm thấy trong cả hoa đực và phần phụ bộ có chiều dài 1178 nucleotide trong mRNA không bao gồm đuôi poly-A và nó được cho là có một protein gồm 304 axit amin.
B. Cơ chế sinh nhiệt của hoa huệ ngựa chết
H. muscivorus “vận dụng” sức nóng của mình để phát tán mùi hương na ná mùi thịt thối đi xa hơn trong không khí, “dỗ dành” những con ruồi “háu ăn” tiếp cận phần phụ bộ ( appendix ) ngay bề mặt mo ( spathe ) để bắt đầu tham gia vào quá trình thụ phấn; mà ruồi thì đâu có phân biệt được đâu là xác chết thật, nên là cứ đâm đầu vào mà “đánh chén”, chẳng hạn như loài nhặng xanh ( Lucilia sericata ). H. muscivorus thụ phấn trong tối đa 2 ngày. Nhiệt độ cao nhất của loài đạt đỉnh vào buổi trưa ngày thứ nhất. Với nhiệt độ phần phụ bộ ( appendix ) cao hơn 12,4oC so với nhiệt độ của môi trường. Theo một nghiên cứu, chỉ trong ngày 1, tám cây hoa huệ ngựa chết đã “mê hoặc” được tổng cộng 881 con ruồi đến “thưởng thức”. Protein tách cặp làm trung gian trong quá trình sinh nhiệt, khi không hoàn thành quá trình tổng hợp ATP, thay vào đó, nó cho phép các điện tử đi vào ti thể ( mitochondrion ) mà không tạo ra ATP. Kết quả là tạo ra được nhiều năng lượng hơn sau đó phân tán thành nhiệt.
C. Thụ phấn
Hoa huệ ngựa chết có quá trình thụ phấn tự nhiên trong hai ngày. Mỗi bông hoa chỉ có thể nhận phấn hoa trong một ngày và thường thì ngày đó các hoa đực chưa phát triển đầy đủ. Mặc dù hoa đực có thể cho phấn vào ngày hôm sau; thì ngược lại, hoa cái sẽ dần héo quắt và không thể tiếp nhận phấn hoa. Cả hai cơ chế này đều thuận lợi cho việc thụ phấn với nguồn phấn từ cây khác và không khuyến khích tự thụ phấn. Khi sẵn sàng thụ phấn, cây bắt đầu cơ chế tạo nhiệt riêng và tỏa ra thứ mùi hệt như mùi thịt thối. Mùi này thu hút những con ruồi tiến vào buồng hoa để thụ phấn. Khi ruồi đã vào bên trong, chúng sẽ mặc kẹt lại trong đó bởi những chiếc “gai” lớn chặn kín đường thoát. Nhưng không phải như bạn nghĩ là cây sẽ giết chúng, hoa huệ ngựa trắng vẫn sẽ để chúng sống. Những con ruồi bị nhốt ở trong vốn là những con ruồi mang phấn hoa từ những lần “viếng thăm” trước đến những bông hoa khác, vô tình thụ phấn cho những “chiếc” hoa cái trong khi chúng đang cố gắng tìm một nơi để đẻ trứng. Ruồi sẽ vẫn bị nhốt qua đêm, những chiếc “gai” vẫn dựng lên chắn lối ra cho đến khi những “chiếc” hoa đực ở lối vào buồng bắt đầu tạo ra phấn hoa, đến lúc này thì những “chiếc” hoa cái không còn tiếp nhận được phấn hoa nữa. Và cũng tại thời điểm đó, “gai” bắt đầu héo và lũ ruồi có thể rời đi. Ngay khi ruồi rời đi, chúng cũng sẽ phải đi qua những “chiếc” hoa đực và lại được phủ đầy phấn hoa và cứ thế vận chuyển đến một cây khác. Một số loài nhặng có tham gia vào quá trình thụ phấn chẳng hạn như loài Calliphora vomitoria.
Tài liệu tham khảo
- Helicodiceros – Wikipedia Tiếng Anh;
- Pollination success of the Corsican Helicodiceros muscivorus ( Araceae ) – Journal of the International Aroid Society 37:61-71 ( 8/2014 );
Comments are closed.